a) Bài 1:
Đất khách mười mùa sương
về thăm quê ngoảnh lại
Ê – đô là cố hương
Ba – sô sinh trưởng ở Mi – ê. Ông lên Ê – đô sống và ở đó được mười năm mới về thăm lại quê hương. Ở Ê – đô, ông rất nhớ quê, nhưng về quê rồi Ba – sô lại nhớ Ê – đô, thấy Ê- đô thân thiết như quê hương mình. Bài thơ ngắn mà thể hiện cái tình gắn bó sâu nặng mảnh đất nơi mình ở. Có lẽ sau này khi viết hai câu thơ nổi tiếng:
Khi ta ở chỉ là nơi đất ở
Khi ta đi, đất đã hóa tâm hồn!
Nhà thơ Chế Lan Viên cũng đã được gợi ý từ ý thơ của Ba – sô chăng?
b) Bài 2:
Trước khi Ê – đô trở thành kinh đô của Nhật Bản (Tokyo) ngày nay, thì kinh đô của Nhật là thành phố Ki – ô – tô. Ba – sô sống ở thành phố Ki – ô – tô thời trẻ (từ năm 22 tuổi đến năm 28 tuổi). Sau đó thì ông chuyển lên sống ở Ê – đô. Cuối đời, ông có dịp trở lại Ki – ô – tô, nghe tiếng chim đỗ quyên hót mà viết nên bài thơ này
Chim đỗ quyên hót
ở Kinh đô
mà nhớ Kinh đô
Ở Nhật Bản, chim đỗ quyên là chim hô-tô-tô-ghi-su thường kêu vào đầu hè, nó không hót khi trời đẹp, mà hót khi trời sẩm tối, vào đêm trăng, sau khi trời mưa, tiếng kêu rất tha thiết. Vì thế nó thường được dùng để chỉ sự thương tiếc thời gian, đặc biệt là thể hiện nỗi buồn và sự vô thường.
Bài thơ của Ba – sô độc đáo ở chỗ phát hiện ra sự trùng hợp ngẫu nhiên của hai từ “Kinh đô”. Ba – sô trở về Kinh đô sau hai mươi năm, nghe tiếng đỗ quyên mà nhớ Kinh đô năm nào. Đó là cả một nỗi niềm hoài cổ, sự tiếc nhớ ấy không chỉ là hoài cổ về quá khứ xa xưa mà còn là sự nhớ tiếc bao kỉ niệm, nhớ tiếc về thời trai trẻ. Thời gian trôi đi, đời người không vĩnh viễn – điều đó thường gợi nhiều nỗi suy tư trong lòng của con người, nhất là những người xa xứ
Câu 2 trang 157 - SGK Ngữ Văn 10 tập 1: Tình cảm của tác giả đối với mẹ, đối với một em bé bị bỏ rơi thể hiện trong các bài 3, 4 như thế nào? Hình ảnh trong các bài thơ đó mơ hồ, mờ ảo ra sao?
Trả lời:
Tình cảm của tác giả đối với mẹ, với một em bé bị bỏ rơi thể hiện trong các bài 3 và 4
a) Bài 3:
Lệ trào nóng hổi
tan trên tay tóc mẹ
làn sương thu
Năm 40 tuổi, Ba – sô làm một cuộc du hành đến Kan – sai gần quê nhà. Về đến nhà thì hay tin mẹ mất. Người ta đưa lại di vật cho ông là một mớ tóc bạc. Ông đau đớn mà viết nên bài thơ này
Bài thơ thấm đượm nỗi xót xa tình mẫu tử, nhất là đó lại là nỗi lòng của đứa con xa xứ, đã không chăm sóc được mẹ già lại không được nhìn thấy mẹ lần cuối trước lúc mẹ mãi mãi ra đi. Nỗi xót xa đau đớn của nhà thơ thể hiện ở giọt lệ nóng hổi rơi xuống bàn tay đang cầm mớ tóc của người mẹ đã khuất. Quý ngữ (từ chỉ mùa) của bài thơ là sương thu. Sương thu ở trong câu thơ có nhiều ý nghĩa. Làn sương thu ở đây là giọt lệ như sương của đứa con trai về muộn, hay nó gợi về hình ảnh mái tóc của mẹ bạc như sương, hay nó chỉ cuộc đời như giọt sương, ngắn ngủi vô thường,… Sương – tóc – lệ tan hòa, tạo lên hình tượng thơ mờ ảo và đa nghĩa.
b) Bài 4
Bài thơ này ra đời trong một hoàn cảnh khá đặc biệt. Trong du kí Phơi thân đồng nội viết năm 1685, Ba – sô có kể chuyện một lần đi qua một cánh rừng, ông có nghe thấy tiếng vượn hú. Tiếng hú ấy gợi ông nhớ đến tiếng khóc của một em bé bị bỏ rơi trong rừng:
Tiếng vượn hú não nề
hay tiếng trẻ bị bỏ rơi than khóc
gió mùa thu tái tê
Bài thơ gợi lại một sự thực nhói đau ở Nhật ngày xưa. Đó là vào những năm mất mùa, đói kém. Có nhà không nuôi nổi con phải bỏ con vào rừng. Thậm chí còn đang tâm giết đứa trẻ nữa.
Những câu chuyện như thế không biết từ bao giờ đã trở thành một ấn tượng sâu đậm hằn in vào tâm khảm nhà thơ. Vì thế, nghe tiếng vượn hú não nề trong rừng vắng mà Ba – sô lại liên tưởng đến tiếng người. Dẫu vẫn biết đó là một tưởng tượng của nhà thơ, thế nhưng trong gió mùa thu, ta như đang nghe thấy tiếng trẻ con khóc thật. Tiếng khóc của trẻ con khiến cho gió mùa thu thêm tê tái hay tiếng gió mùa thu kia đang than khóc cho nỗi đau của con người? Sự đa nghĩa tiềm tàng trong thơ hai – cư là thế. Nội dung ý nghĩa của mỗi bài thơ luôn còn là một khoảng mở dành cho kinh nghiệm sống và sự rung động riêng của mỗi người phát huy
Câu 3 trang 157 - SGK Ngữ Văn 10 tập 1: Qua bài 5, anh (chị) cảm nhận được vẻ đẹp gì trong tâm hồn nhà thơ?
Trả lời:
Vẻ đẹp tâm hồn của Ba – sô trong bài 5
Mưa đông giăng đầy trời
chú khỉ con thầm ước
có một chiếc áo tơi
Bài thơ này Ba – sô sáng tác khi đi du hành ngang qua một cánh rừng, ông thấy một chú khỉ nhỏ đang lạnh run lên trong cơn mưa mùa đông. Nhà thơ tưởng tượng, chú khỉ đang thầm ước có một chiếc áo tơi để che mưa, che lạnh.
Bài thơ là một liên tưởng rất giàu nhân văn. Hình ảnh chú khỉ chỉ là một ẩn dụ, nó gợi lên hình ảnh của người nông dân Nhật Bản xưa, gợi hình ảnh những em bé nghèo đang co ro trong cơn lạnh. Bài thơ thể hiện tình thương yêu sâu sắc, thể hiện lòng nhân ái bao la của Ba – sô đối với những kiếp người nhỏ bé trong xã hội.
Câu 4 trang 157 - SGK Ngữ Văn 10 tập 1: Mối tương giao giữa các sự vật hiện tượng trong vũ trụ được thể hiện như thế nào trong các bài 6,7? Hình tượng thơ đẹp, thú vị ở chỗ nào?
Trả lời:
Mối tương giao giữa các sự vật hiện tượng trong vũ trụ (thể hiện trong các bài 6 và 7)
a) Bài 6:
Từ bốn phương trời xa
cánh hoa đào lả tả
gợn sóng hồ Bi – oa
Hồ Bi – oa (Hồ Tì Bà) nằm ở tỉnh Si –ga, gần quê của Ba – sô. Quanh hồ Bi – oa có trồng rất nhiều hoa anh đào. Mỗi khi gió thổi, cánh hoa anh đào lại rụng lả tả như mây. Cánh hoa hồng nhạt, mong manh rụng xuống mặt hồ làm cho mặt hồ gợn sóng.
Thơ xưa thường có nhiều bài nói đến sự tương giao của các sự vật, hiện tượng trong vũ trụ. Bài thơ này là một bài thơ như thế. Cảnh tượng trên hồ Bi – oa chính là thể hiện sự tương giao của các vật trong vũ trụ (giữa trời, hoa và nước trên hồ)
Triết lí về sự tương giao là triết lí của Thiền tong (một dòng thiền của Phật giáo). Nó sâu xa nhưng lại được thể hiện bằng những hình tượng giản dị, nhẹ nhàng. Đó chính là một cảm thức thẩm mĩ trong thơ của Ba – sô.
b) Bài 7:
Vắng lặng u trầm
Thấm sâu vào đá
Tiếng ve ngâm.
Bài thơ ra đời trong một lần Ba – sô leo lên núi đá để thăm chính điện chùa Riu-sa-ku-ji. Nó quả là một liên tưởng kì lạ, thể hiện sự tương giao cảm giác, âm thanh và vật thể, là sản phẩm mang đậm cảm giác u huyền của tôn giáo Thiền tông.
Tiếng ve là âm thanh, đá là vật thể. Sự giao hòa quả là không thể có. Thế nhưng trong cảnh u tịch, vắng lăng của chiều tà, khi tất cả đều im ắng hết lại(im ắng cả trong hồn), người ta như có thể nghe được tiếng ve rền rĩ như nhiễm vào, như thấm vào đá. Liên hệ đó độc đáo, kì lạ mà không hề khoa trương.
Câu 5 trang 157 - SGK Ngữ Văn 10 tập 1: Khát vọng được sống, được tiếp tục lãng du của Ba - sô được thể hiện như thế nào trong bài 8?
Trả lời:
Khát vọng sống, khát vọng được tiếp tục lãng du của Ba-sô được thể hiện trong bài 8:
Nằm mộng giữa cuộc lãng du
mộng hồn còn phiêu bạt
những cánh đồng hoang vu
Bài thơ này Ba –sô viết ở Osaka (1694). Đây là bài thơ từ thế của ông. Trước đó Ba – sô đã thấy sức lực của mình yếu lắm rồi, như một cánh chim sắp sửa bay khuất vào chân trời vô tận. Thế nhưng trước cái chết, Ba – sô không hề bi lụy. Cả cuộc đời mình, Ba – sô đã lang thang, phiêu lãng khắp nơi nơi. Vì thế ngay cả khi sắp từ giã coi đời, ông vẫn còn lưu luyến lắm, vẫn còn muốn tiếp tục cuộc đi – đi bằng hồn mình. Bài thơ như là một bức thông điệp cho cái tâm nguyện ấy. Và đúng là đọc bài thơ ta lại như thấy hồn Ba – sô đang tiếp tục lang thang trên khắp những cánh đồng hoang vu, bất tận
Câu 6 trang 157 - SGK Ngữ Văn 10 tập 1: Tìm "quý ngữ" và cảm thức thẩm mĩ về cái Vắng lặng, Đơn sơ, U huyền trong các bài 6,7,8.
Trả lời:
Quý ngữ trong các bài thơ:
+ Bài 6: hoa đào (chỉ mùa xuân)
+ bài 7: tiếng ve (chỉ mùa hè)
+ Bài 8: cánh đồng hoang vu (chỉ mùa đông)
- Cảm thức thẩm mĩ trong các bài thơ trên:
Thiên nhiên trong thơ Hai – cư của Ba – sô thường là những cảnh rất bình dị, nhỏ bé, tầm thường, cánh hoa đào lả tả, tiếng ve, cánh đồng hoang vu… thế nhưng qu tâm hồn nhạy cảm và cái nhìn hết sức tinh tế của nhà thơ, nó vẫn có những nét thẩm mĩ rất riêng, rất đẹp và rất thanh. Ba bài thơ 6,7, và 8 của Ba – sô đều miêu tả những cảnh rất đơn sơ, đặc biệt là rất vắng lặng (cánh hoa đào mỏng manh rơi lại có thể làm cho mặt hồ gợn sóng); u huyền (âm thanh của tiếng ve ngâm tưởng như thấm sâu vào đá, một linh hồn sắp lìa khỏi thế gian mà vẫn muốn tiếp tục lang thang trên khắp những cánh đồng hoang vu, bất tận), từ đó khơi gợi trí tưởng tượng phong phú cho người đọc, đồng thời hướng người đọc đến những triết lí nhân sinh giản đơn mà sâu sắc.