Soạn bài Thực hành phép tu từ ẩn dụ và hoán dụ

I. ẨN DỤ

1. Đọc những câu ca dao sau và trả lời câu hỏi.

(1) Thuyền ơi có nhớ bến chăng
Bến thì một dạ khăng khăng đợi thuyền
 
(2) Trăm năm đành lỗi hẹn hò
Cây đa bến cũ con đò khác đưa
 
a. Anh (chị) có nhận thấy trong câu câu dao trên những từ thuyền, bến, cây đa, con đò,.. không chỉ là thuyền, bến ,... mà con mang nội dung ý nghĩa hoàn toàn khác không? Nội dung ý nghĩa ấy là gì?
b. Thuyền, bến (câu 1) và cây đa, bến cũ, con đò (câu 2) có gì khác nhau? Làm thế nào để hiểu được nội dung hàm ẩn trong hai câu đó?
 
2. Tìm và phân tích phép ẩn dụ trong những đoạn trích sau:
 
(1)  Dưới trăng quyên đã gọi hè
Đầu tường lửa lựu lập lòe đâm bông
(Nguyễn Du, Truyện Kiều)
 
(2) Vứt đi những thứ văn nghệ ngòn ngọt, bày ra sự phè phỡn thỏa thuê hay cay đắng chất độc của bệnh tật, quanh quẩn vài tình cảm gầy gò của cá nhân co rúm lại. Chúng ta muốn có những tiểu thuyết, những câu thơ thay đổi được cả cuộc đời người đọc – làm thành người, đẩy chúng ta lên một sự sống trước kia chỉ đứng xa nhìn thấp thoáng.
(Nguyễn Đình Thi, Nhận đường)
 
(3) Ơi con chim chiền chiện
Hót chi mà vang trời
Từng giọt long lanh rơi
Tôi đưa tay tôi hứng
(Thanh Hải – Mùa xuân nho nhỏ)
 
(4) Thác bao nhiêu thác cũng qua
Thênh thênh là chiếc thuyền ta trên đời
(Tố Hữu, Nước non ngàn dặm)
 
(5) Xưa phù du mà nay đã phù sa
Xưa bay đi mà nay không trôi mất 
(Chế Lan Viên, Nay đã phù sa)
 
3. Quan sát một vật gần gũi quen thuộc, liên tưởng đến một vật khác có điểm giống với vật đó và viết câu văn có dùng phép ẩn dụ
 
II. HOÁN DỤ
1. Đọc những câu sau và trả lời câu hỏi
(1) Đầu xanh có tội tình gì
Má hồng đến quá nửa thì chưa thôi
(Nguyễn Du, Truyện Kiều)
 
(2) Áo nâu liền với áo xanh
Nông dan liền với thị thành đứng lên
(Tố Hữu, Ba mươi năm đời ta có Đảng)
a) Dùng những cụm từ đầu xanh, má hồng, nhà thơ Nguyễn Du muốn nói điều gì và ám chỉ nhân vật nào trong Truyện Kiều? Cũng như vậy, dùng những cụm từ áo nâu, áo xanh, Tố Hữu muốn chỉ lớp người nào trong xã hội ta
b) Làm thế nào để hiểu đúng một đối tượng khi nhà thơ thay đổi tên gọi của đối tượng đó?
 
2. Thôn Đoài thì nhớ thôn Đông
Cau thôn Đoài nhớ giầu không thôn nào.
(Nguyễn Bính – Tương tư)
 
a) Câu thơ trên có cả hoán dụ và ẩn dụ. Anh (chị) hãy phân biệt hai phép tu từ đó
b) Cùng bày tỏ nỗi nhớ người yêu, câu Thôn Đoài thì nhớ thôn Đông khác với câu Thuyền ơi có nhớ bến chăng ở điểm nào?
 
3. Quan sát một sự vật, nhân vật quen thuộc và thử đổi tên gọi của chúng theo phép ẩn dụ hoặc hoán dụ để viết một đoạn văn về sự vật, nhân vật đó
Lời giải:

I. ẨN DỤ

Câu 1 trang 135 - SGK Ngữ Văn 10 tập 1: Đọc những câu ca dao sau và trả lời câu hỏi.

(1) Thuyền ơi có nhớ bến chăng
Bến thì một dạ khăng khăng đợi thuyền
 
(2) Trăm năm đành lỗi hẹn hò
Cây đa bến cũ con đò khác đưa
 
a. Anh (chị) có nhận thấy trong câu câu dao trên những từ thuyền, bến, cây đa, con đò,.. không chỉ là thuyền, bến ,... mà con mang nội dung ý nghĩa hoàn toàn khác không? Nội dung ý nghĩa ấy là gì?
b. Thuyền, bến (câu 1) và cây đa, bến cũ, con đò (câu 2) có gì khác nhau? Làm thế nào để hiểu được nội dung hàm ẩn trong hai câu đó?
 
Trả lời: 
 
a. Trong hai câu ca dao, các từ thuyền, bến, cây đa, con đò… đúng là những từ không chỉ mang nghĩa gọi tên sự vật tồn tại trong hiện thực (thuyền, bến) mà còn mang nội dung ý nghĩa hoàn toàn khác. Các hình ảnh thuyền (con đò)- bến (cây đa) lần lượt tạo nên ý nghĩa tượng trưng cho hình ảnh người ra đi và người ở lại. Chính vì vậy câu (1) trở thành lời thề ước, hứa hẹn, nhắn nhủ về sự thủy chung. Câu (2) trở thành lời than tiếc vì thề xưa “lỗi hẹn”

b. Các từ thuyền, bến ở câu (1) và cây đa, bến cũ ở câu (2) có sự khác nhau nhưng chỉ là khác ở nội dung ý nghĩa hiện thực (chỉ sự vật). Xét về ý nghĩa biểu trưng, chúng là những liên tưởng giống nhau (đều mang ý nghĩa hàm ẩn chỉ người đi – kẻ ở). Để hiểu đúng ý nghĩa hàm ẩn này, thông thường chúng ta giải thích rằng: Các sự vật thuyền – bến – cây đa, bến cũ – con đò là những vật luôn gắn bó với nhau trong thực tế. Vì vậy chúng được dùng để chỉ “tình cảm gắn bó keo sơn của con người”. Bến, cây đa, bến cũ mang ý nghĩa hiện thực chỉ sự ổn định, vì thế nó giúp người ta liên tưởng đến hình ảnh người phụ nữ, tới sự chờ đợi, nhớ nhung, thủy chung son sắt. Ngược lại là thuyền, con đò thường di chuyển không cố định nên được hiểu là người con trai, là sự ra đi. Có hiểu được quy luật liên tưởng như vậy chúng ta mới đi sâu khám phá được ý nghĩa ẩn sâu sau mỗi câu ca dao.
Câu 2 trang 135, 136 - SGK Ngữ Văn 10 tập 1: Tìm và phân tích phép ẩn dụ trong những đoạn trích sau:
 
(1)  Dưới trăng quyên đã gọi hè
Đầu tường lửa lựu lập lòe đâm bông
(Nguyễn Du, Truyện Kiều)
 
(2) Vứt đi những thứ văn nghệ ngòn ngọt, bày ra sự phè phỡn thỏa thuê hay cay đắng chất độc của bệnh tật, quanh quẩn vài tình cảm gầy gò của cá nhân co rúm lại. Chúng ta muốn có những tiểu thuyết, những câu thơ thay đổi được cả cuộc đời người đọc – làm thành người, đẩy chúng ta lên một sự sống trước kia chỉ đứng xa nhìn thấp thoáng.
(Nguyễn Đình Thi, Nhận đường)
 
(3) Ơi con chim chiền chiện
Hót chi mà vang trời
Từng giọt long lanh rơi
Tôi đưa tay tôi hứng
(Thanh Hải – Mùa xuân nho nhỏ)
 
(4) Thác bao nhiêu thác cũng qua
Thênh thênh là chiếc thuyền ta trên đời
(Tố Hữu, Nước non ngàn dặm)
 
(5) Xưa phù du mà nay đã phù sa
Xưa bay đi mà nay không trôi mất 
(Chế Lan Viên, Nay đã phù sa)
 
Trả lời: 

(1) Trong câu thơ
Dưới trăng quyên đã gọi hè
Đầu tường lửa lựu lập lòe đâm bông
Nhà thơ Nguyễn Du đã dùng hai hình ảnh là chim đỗ quyên và hoa lựu để biểu đạt một ý nghĩa: mùa hè đã đến. Cả hai hình ảnh này đều là những dấu hiệu báo hè (chim đỗ quyên kêu và hoa lựu nở đều vào thời điểm mùa hè). Vì thế nhìn vào hai dấu hiệu ấy, người ta có thể nghĩ ngay đến sự khởi đầu của mùa hè. Lửa lựu còn gợi liên tưởng đến sự ấm nóng của mùa hè
Chú ý: Thực ra hai hình ảnh chim đỗ quyên và hoa lựu nở cũng có thể hiểu là hai hoán dụ. Bởi mùa hè – chim quyên – hoa lựu đều có thực và gắn bó chặt chẽ với nhau trong thực tế (nghĩa là chúng có mối liên hệ tương cận với nhau). Như vậy chỉ có hình ảnh lửa lựu (sức nóng của mùa hè) ở trong câu này được xây dựng dựa trên cơ sở liên tưởng tương đồng “thực sự” mà thôi.
 
(2) Vứt đi những thứ văn nghệ ngòn ngọt, bày ra sự phè phỡn thỏa thuê hay cay đắng chất độc của bệnh tật, quanh quẩn vài tình cảm gầy gò của cá nhân co rúm lại. Chúng ta muốn có những tiểu thuyết, những câu thơ thay đổi được cả cuộc đời người đọc – làm thành người, đẩy chúng ta lên một sự sống trước kia chỉ đứng xa nhìn thấp thoáng.
Cụm từ “làm thành người” là một ẩn dụ được xây dựng dựa trên cơ sở liên tưởng về cách thức. Từ “làm thành” thường dùng để chỉ quá trình thực hiện một việc gì đó (từ chưa được đến được, từ chưa tốt đến tốt…) Quá trình nhận thức của con người cũng diễn ra như vậy. Do đó làm thành người cũng hiểu là nên người – nghĩa là có những nhận thức đúng đắn về cuộc sống
 
(3) Đoạn thơ:
Ơi con chim chiền chiện
Hót chi mà vang trời
Từng giọt long lanh rơi
Tôi đưa tay tôi hứng
 
Đoạn thơ này cũng giống hai câu thơ của Nguyễn Du. Ở đây hình ảnh chim chiền chiện, giọt sương rơi (giọt long lanh) là những dấu hiệu báo mùa xuân đến. Ẩn dụ này được xây dựng dựa trên cơ sở liên tưởng đến dấu hiệu đặc trưng – mùa
 
(4) Thác bao nhiêu thác cũng qua
Thênh thênh là chiếc thuyền ta trên đời
Câu thơ có hai hình ảnh ẩn du:
Thác – ý chỉ những khó khăn, vất vả, những thử thách. Chiếc thuyển – chỉ con đường cách mạng, chỉ con đường của cả nước non mình
Câu thơ xây dựng hình ảnh ẩn dụ dựa trên những liên tưởng có thực, thác – khó khăn, con thuyền – sức mạnh để vượt qua gian khó, để nói lên sức sống và sức vươn lên mãnh liệt của dân tộc chúng ta
 
(5) Câu thơ cũng có hai hình ảnh ẩn dụ: Phù du (liên tưởng đến cuộc đời nổi trôi, ngắn ngủi) và phù sa (cuộc sống sung sướng, hạnh phúc, ấm no). Sở dĩ có liên tưởng này bởi phù du là một loài côn trùng có cuộc đời ngắn ngủi, trái lại phù sa là “chất dinh dưỡng” tốt nuôi sống cây trái trên đồng. Dùng hai hình ảnh ẩn dụ này, nhà thơ Chế Lan Viên muốn so sánh cuộc đời xưa và nay. Từ đó mà khẳng định giá trị và ý nghĩa nhân văn của cuộc sống hôm nay. 
 
Câu 3 trang 136 SGK - Ngữ Văn 10 tập 1:  Quan sát một vật gần gũi quen thuộc, liên tưởng đến một vật khác có điểm giống với vật đó và viết câu văn có dùng phép ẩn dụ
 
Trả lời: 
HS làm theo ba bước.
- Quan sát một vật quen thuộc bất kì.
- Liên tưởng đến một vật khác có điểm giống với vật đó.
Ví dụ: Tôi chẳng thích chiếc mũi cà chua của mình (Mũi đỏ và to như cà chua)
 
II. HOÁN DỤ
Câu 1 trang 136, 137 - SGK Ngữ Văn 10 tập 1: Đọc những câu sau và trả lời câu hỏi:
 
(1) Đầu xanh có tội tình gì
Má hồng đến quá nửa thì chưa thôi
(Nguyễn Du, Truyện Kiều)
 
(2) Áo nâu liền với áo xanh
Nông dan liền với thị thành đứng lên
(Tố Hữu, Ba mươi năm đời ta có Đảng)
a) Dùng những cụm từ đầu xanh, má hồng, nhà thơ Nguyễn Du muốn nói điều gì và ám chỉ nhân vật nào trong Truyện Kiều? Cũng như vậy, dùng những cụm từ áo nâu, áo xanh, Tố Hữu muốn chỉ lớp người nào trong xã hội ta
b) Làm thế nào để hiểu đúng một đối tượng khi nhà thơ thay đổi tên gọi của đối tượng đó?
 
Trả lời: 
 
a) Nhà thơ Nguyễn Du dùng từ đầu xanh với ý chỉ tuổi trẻ, từ má hồng để chỉ người con gái đẹp. cả hai từ này đều dùng để chỉ nhân vật Thúy Kiều. Cũng như vậy, Tố Hữu dùng cụm từ áo nâu, áo xanh (Áo nâu liền với áo xanh – Nông dân cùng với thị thành đứng lên) để chỉ hai giai cấp trong xã hội: nông dân và công nhân. Trong cả hai trường hợp này, các nhà thơ đã dùng những từ chỉ bộ phận của cơ thể (đầu, má) hay những trang phục quen dùng của một tầng lớp trong xã hội (áo nâu, áo xanh) để chỉ con người. Cách gọi tên này chẳng những tránh được sự nhầm lẫn. mòn sáo mà còn đem lại những niềm vui thích cho người đọc và gợi những tình ý sâu xa.
 
b) Trong trường hợp khi chúng ta gặp phải một đối tượng đã bị tác giả thay đổi cách gọi tên, để hiểu đúng được đối tượng ấy, chúng ta phải chú ý xem tác giả đã chọn cái gì để thay thế các đối tượng ấy. Cái được tác giả chọn để thay thế thường là một bộ phận, một tính chất, một đặc điểm nào đó tiêu biểu. Phương thức chuyển đổi nghĩa này là phép tu từ hoán dụ. Nó giúp cho việc gọi tên sự vật, hiện tượng… trở nên phong phú, sinh động và hấp dẫn hơn. 
Các trường hợp đã cho đều là hoán dụ tu từ
 
Câu 2 trang 137 - SGK Ngữ Văn 10 tập 1: 
 
Thôn Đoài thì nhớ thôn Đông
Cau thôn Đoài nhớ giầu không thôn nào.
(Nguyễn Bính – Tương tư)
 
a) Câu thơ trên có cả hoán dụ và ẩn dụ. Anh (chị) hãy phân biệt hai phép tu từ đó
b) Cùng bày tỏ nỗi nhớ người yêu, câu Thôn Đoài thì nhớ thôn Đông khác với câu Thuyền ơi có nhớ bến chăng ở điểm nào?
 
Trả lời: 
 
Nguyễn Bính viết:
Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông
Cau thôn Đoài nhớ trầu không thôn nào
Trong câu thơ này, hai hình ảnh thôn Đoài, thôn Đông là hai hình ảnh hoán dụ dùng để chỉ “người thôn Đoài” và “người thôn Đông”. Còn hai hình ảnh “cau thôn Đoài” và “trầu không thôn nào” lại là những ẩn dụ dùng để chỉ những người đang yêu. Hai câu thơ là một lời tỏ tình thú vị. Đích của lời nói tuy vẫn hướng về người yêu. Thế nhưng cách nói bâng quơ theo kiểu ngôn ngữ tỏ tình của trai gái đã tạo nên một sự thích thú đặc biệt cho những người tiếp nhận nội dung của câu thơ.
- Cùng là bày tỏ nỗi nhớ người yêu nhưng nếu câu ca dao “Thuyền ơi có nhớ bến chăng?”sử dụng những liên tưởng có phần sáo mòn thì câu thơ của Nguyễn Bính (Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông) lại có những liên tưởng vô cùng mới mẻ. Những liên tưởng này tạo ra những nét đẹp riêng và sự thích thú hấp dẫn cho mỗi câu thơ
 
Câu 3 trang 137 - SGK Ngữ Văn 10 tập 1: Quan sát một sự vật, nhân vật quen thuộc và thử đổi tên gọi của chúng theo phép ẩn dụ hoặc hoán dụ để viết một đoạn văn về sự vật, nhân vật đó
 
Trả lời:
Ví dụ: "Họa mi" Lan Phương là niềm tự hào to lớn của lớp 10A12. Nàng họa mi xinh đẹp ấy đúng với danh xưng là vừa hát hay, nhảy đẹp lại vừa học giỏi, tham gia nhiệt tình công tác Đoàn đôi.Bởi thế mà mỗi khi nhắc đến tên "Họa mi" là ai ai cũng biết đến đó là Lan Phương lớp chúng tôi. Bạn ấy luôn luôn giúp đỡ bạn bè, giản dị mà gần gũi đối với mỗi người trong lớp. Có lẽ vì thế mà lớp tôi và cả thầy cô giáo ai ai cũng yêu thích nàng "Họa mi" ấy!