Soạn bài Hoàng Lê nhất thống chí - Hồi thứ mười bốn trích
1. Tìm đại ý và bố cục đoạn trích.
2. Qua đoạn trích tác phẩm, em cảm nhận hình ảnh người anh hùng dân tộc Quang Trung – Nguyễn Huệ như thế nào? Theo em, nguồn cảm hứng nào đã chi phối ngòi bút tác giả khi tạo dựng hình ảnh người anh hùng dân tộc này?
3. Sự thảm bại của quân tướng nhà Thanh và số phận bi đát của vua tôi Lê Chiêu Thống phản nước, hại dân đã được miêu tả như thế nào? Ngòi bút của tác giả khi miêu tả hai cuộc tháo chạy (một của quân tướng nhà Thanh và một của vua tôi Lê Chiêu Thống) có gì khác biệt? hãy giải thích vì sao có sự khác biệt đó.
4. Nêu nhận xét về nghệ thuật trần thuật của đoạn trích này.
I. ĐỌC HIỂU VĂN BẢN
Câu 1 trang 72 SGK Ngữ văn 9 tập 1: Tìm đại ý và bố cục đoạn trích.
Trả lời:
- Đại ý của đoạn trích: Hồi thứ mười bốn là một trong những phần hay nhất của tác phẩm “Hoàng Lê nhất thống chí”. Qua hồi này tác giả đã dựng lên hình ảnh người anh hùng dân tộc Nguyễn Huệ cùng sự thất bại thảm hại tất yếu của bọn xâm lược và lũ vua quan phản nước, hại dân một cách chân thực, sinh động.
+ Đoạn 1: Từ đầu đến “… hôm ấy nhằm vào ngày 25 tháng chạp năm Mậu Thân (1788)”: Được tin báo quân Thanh đã chiếm Thăng Long, vua Lê thụ phong, Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ lên ngôi Hoàng đế, tự mình đốc suất đại binh ra Bắc dẹp giặc.
+ Đoạn 2: Từ “Vua Quang Trung tự mình đốc suất đại binh...” cho đến “Vua Quang Trung tiến binh đến Thăng Long, rồi kéo vào thành”: cuộc hành quân thần tốc và chiến thắng lẫy lừng của vua Quang Trung đối với quân Thanh.
+ Đoạn 3: Từ “Lại nói, Tôn Sĩ Nghị và vua Lê...” cho đến hết: Thất bại thảm hại của quân Tôn Sĩ Nghị và sự thảm hại của vua tôi Lê Chiêu Thống.
* Quang Trung là một người mạnh mẽ quyết đoán: Hành động xông xáo, mau lẹ, có chủ đích và rất quả quyết. Nhận được tin giặc chiếm Thăng Long, ông không hề nao núng “định thân chinh cầm quân đi ngay”. Trong vòng hơn 1 tháng (từ 24 tháng 11 đến 30 tháng chạp) Nguyễn Huệ đã làm được nhiều việc lớn: tế cáo trời đất, lên ngôi hoàng đế, tự mình đốc suất đại binh ra Bắc, gặp gỡ người cống sĩ ở huyện La Sơn là Nguyễn Thiếp để hỏi kế sách, tuyển mộ quân sĩ và “mở cuộc duyệt binh lớn” ở Nghệ An, đích thân dụ tướng sĩ, hoạch định kế hoạch đánh giặc…và cả kế hoạch đối phó nhà Thanh sau chiến thắng.
* Đó còn là con người có trí tuệ sáng suốt và nhạy bén trước thời cuộc
- Sáng suốt trong việc lên ngôi: Trước biến cố lớn của đất nước, Nguyễn Huệ lên ngôi là điều cần thiết để “chính vị hiệu”, “yên kẻ phản trắc và giữ lấy lòng người”, tập hợp sức mạnh đoàn kết để đánh đuổi giặc Thanh.
- Sáng suốt trong việc phân tích tình hình thời cuộc và thế tương quan chiến lược giữa ta và địch: Qua lời phủ dụ tướng sĩ trước lúc lên đường ở Nghệ An. Lời phủ dụ có thể xem như bài hịch ngắn gọn mà ý tứ thật phong phú, sâu xa, thấu tình đạt lí. Đây cũng là quân lệnh nghiêm khắc có tác động chấn chỉnh đội ngũ, khích lệ lòng yêu nước và truyền thống quật cường của dân tộc.
* Sáng suốt trong việc xét đoán và dùng người: Trong dịp hội quân ở Tam Điệp, qua lời nói của vua Quang Trung với Sở, Lân khi hai người “đều mang gươm trên lưng mà xin chịu tội”, ta thấy ông rất hiểu việc rút quân của hai vị tướng giỏi này. Đúng ra “quân thua chém tướng” nhưng ông hiểu họ, biết sức mình ít không địch nổi quân hùng tướng mạnh nhà Thanh nên đành bỏ Thăng Long rút về Tam Điệp để bảo toàn lực lượng vừa gây cho giặc sự chủ quan. Ông cũng hiểu đây là kế của Ngô Thì Nhậm. Vì vậy 2 tướng không bị phạt mà còn được khen ngợi. Đối với Ngô Thì Nhậm ông đánh giá rất cao và sử dụng như một vị quân sư “đa mưu túc trí”. Việc Sở và Lân rút chạy, Quang Trung cũng đoán là do Nhậm chủ mưu, vừa là để bảo toàn lực lượng, vừa gây cho giặc sự chủ quan. Ông đã tính đến việc dùng Nhậm là người hiểu biết dùng lời khéo léo để dẹp binh đao, hi vọng tài năng của Ngô Thì Nhậm sẽ thể hiện trong việc ngoại giao với nhà Thanh sau chiến thắng,….
* Ý chí quyết thắng và tầm nhìn xa trông rộng: Điều đó được thể hiện ở kế sách vừa tiến quân vừa tuyển binh sĩ, tạo nên cuộc tiến công thần tốc khiến cho kẻ địch không ngờ được mà đối phó. Vừa mới khởi binh đánh giặc, vậy mà Quang Trung tuyên bố “phương lược tiến đánh đã có tính sẵn”, “chẳng qua hơn mươi ngày” có thể đuổi giặc Thanh. Biết trước kẻ thù “lớn gấp 10 nước mình”, bị thua 1 trận “ắt lấy làm thẹn mà lo mưu báo thù khiến việc binh đao không bao giờ dứt” nên Nguyễn Huệ còn tính sẵn cả kế hoạch ngoại giao sau chiến thắng để có thời gian “yên ổn mà nuôi dưỡng lực lượng” vì hoà bình và phát triển của dân tộc.
* Tài dùng binh như thần: Vừa hành quân, vừa đánh giặc mà Quang Trung hoạch định kế hoạch từ 25 tháng chạp đến mùng 7 tháng giêng sẽ ăn tết ở Thăng Long, thực tế đã vượt mức 2 ngày. Cuộc hành quân thần tốc do Quang Trung chỉ huy đến nay vẫn còn làm chúng ta kinh ngạc. Hành quân xa, liên tục như vậy nhưng đội quân vẫn chỉnh tề cũng là do tài tổ chức của người cầm quân. Đội quân của vua Quang Trung không phải lính thiện chiến lại vừa trải qua những tháng ngày hành quân cấp tốc; không có thì giờ nghỉ ngơi, vậy mà dưới sự lãnh đạo tài tình của vị tổng chỉ huy này đã đánh những trận thật đẹp, áp đảo đối phương với chiến thuật bí mật, thần tốc, bất ngờ. (bắt sống hết quân do thám của địch ở Phú Xuyên, giữ được bí mật để tạo thế bất ngờ, vây kín làng Hà Hồi, “quân lính luân phiên nhau rạ ran” làm cho lính trong đồn “ai nấy rụng rời sợ hãi”, đều xin hàng; công phá Ngọc Hồi, lấy ván ghép phủ rơm dấp nước để làm mộc che, dàn trận tiến đánh, khi giáp lá cà thì “quăng ván xuống đất, ai nấy cầm dao ngắn chém bừa, những người cầm binh khí theo sau cũng nhất tề xông tới”. Khí thế của đội quân này làm cho kẻ thù phải khiếp vía “tướng ở trên trời xuống, quân như dưới đất lên”
* Oai phong lẫm liệt trong chiến đấu: Hoàng đế Quang Trung là một tổng chỉ huy đến nay vẫn còn làm cho chúng ta kinh ngạc. Vua vừa hoạch định chiến lược, sách lược, vừa trực tiếp tổ chức quân sĩ bài binh bố trận, vừa tự mình thống lĩnh một mũi tiến công, cưỡi voi đi đốc thúc, xông pha nơi trận tiền. Hình ảnh người anh hùng Quang Trung được khắc hoạ thật lẫm liệt “trong cảnh khói toả mù trời, cách gang tấc không thấy gì, nổi bật hình ảnh nhà vua “cưỡi voi đi đốc thúc”. Đây là hình ảnh người anh hùng chiến trận đẹp vào bậc nhất trong văn học Trung đại Việt Nam và là linh hồn của chiến công vĩ đại.
=>Hoàng đế Quang Trung là một hình ảnh đẹp tiêu biểu cho khí phách dân tộc Việt Nam.
*Nguồn cảm hứng: Với ý thức tôn trọng lịch sử, các tác giả Ngô gia văn phái – những trí thức, những cựu thần của nhà Lê đã không thể bỏ qua sự thực vua Lê hèn nhát cõng rắn cắn gà nhà và chiến công lừng lẫy của nghĩa quân Tây Sơn. Với ý thức và tinh thần dân tộc, là những trí thức yêu nước, họ không thể không ngợi ca chiến thắng vĩ đại của dân tộc mà linh hồn chiến thắng đó là Quang Trung Nguyễn Huệ. Thể loại tiểu thuyết lịch sử chương hồi cũng góp phần tạo nên cảm hứng cho các tác giả viết nên những trang văn thực mà đẹp đến như vậy.
Trả lời:
* Quân tướng nhà Thanh
- Tôn Sĩ Nghị rất kiêu căng, tự mãn, chủ quan: kéo vào Thăng Long rất dễ dàng, như “đi trên đất bằng, cho là vô sự, không đề phòng gì, chỉ lảng vảng bên bờ sông, lấy thanh thế suông để doạ dẫm. Lính thì rời doanh trại để đi kiếm củi, buôn bán ở chợ dân gian;tướng thì suốt ngày lo yến tiệc, cờ bạc…không lo gì đến việc bất trắc.”
- Khi bị quân Tây Sơn tiến công bất ngờ, không kịp trở tay “rụng rời sợ hãi”, chống không nổi “bỏ chạy tán loạn, giày xéo lên nhau mà chết”, “thây chết đầy đồng, máu chảy thành suối” đến nỗi “nước sông Nhị Hà vì thế mà tắc nghẽn không chạy được nữa.
- Nhục nhã nhất là hình ảnh tướng giặc Sầm Nghi Đống phải thắt cổ tự tử. Tôn Sĩ Nghị “sợ mất mật, ngựa không kịp đóng yên, người không kịp mặc áo giáp, dẫn bọn lính kỵ mã của mình chuồn trước qua cầu phao, rồi nhằm hướng Bắc mà chạy”. Cả đội binh hùng tướng mạnh chỉ biết mạnh ai nấy chạy, đêm ngày đi không dám nghỉ ngơi.
* Những kẻ bán nước:
- Khi có biến, quân Thanh tan rã, cả bọn vội vàng rời cung điện chạy trốn, cướp cả thuyền đánh cá của dân để qua sông, chạy luôn mấy ngày chịu đói, chịu nhục. May mắn gắp được người thổ hào thương tình đón về cho ăn và chỉ đường chạy thoát thân. Đuổi kịp Tôn Sĩ Nghị, chúng chỉ biết “nhìn nhau than thở, oán giận đến chảy nước mắt”.
* Ngòi bút tác giả miêu tả hai cuộc tháo chạy này có sự khác biệt. Ở đoạn kể về cuộc tháo chạy của quân tướng nhà Thanh thì kể truyện xen kẽ với những chi tiết thực thật cụ thể, chi tiết, sinh động với nhịp điệu nhanh, dồn dập, gấp gáp gợi sự hoảng hốt của kẻ thù. Ngòi bút miêu tả khách quan nhưng vẫn hàm chứa tâm trạng hả hê sung sướng của người viết cũng như của cả dân tộc trước thắng lợi của quân Tây Sơn. Còn khi miêu tả cuộc tháo chạy của vua tôi Lê Chiêu Thống thì các tác giả lại dùng lối văn trần thuật, kể chuyện xen kẽ miêu tả một cách tỉ mỉ với nhịp điệu chậm hơn gây được ấn tượng mạnh. Ngòi bút đượm chút ngậm ngùi xót thương của tác giả - bề tôi của nhà Lê.
Trả lời: