Soạn bài Ôn tập phần tập làm văn tiếp theo - SGK môn Ngữ văn 9 tập 1

8.  Giải thích tại sao trong một văn bản có đủ các yếu tố miêu tả, biểu cảm, nghị luận mà vẫn gọi đó là văn bản tự sự. Theo em, liệu có một văn bản nào chỉ vận dụng một phương thức biểu đạt duy nhất không?

9. Kẻ lại bảng sau vào vở và đánh dấu (x) vào các ô trống mà kiểu văn bản chính có thể kết hợp với các yếu tố tương ứng trong nó (chẳng hạn tự sự có thể kết hợp với miêu tả thì đánh dấu vào ô thứ hai).

10. Một số tác phẩm tự sự được học trong sách giáo khoa Ngữ văn từ lớp 6 đến lớp 9 không phải bao giờ cũng phân biệt rõ bố cục ba phần: Mở bài, Thân bài, và Kết bài. Tại sao bài tập làm văn tự sự của học sinh vẫn phải có đủ ba phần đã nêu?

11. Những kiến thức và kĩ năng về kiểu văn bản tự sự của phần Tập làm văn có giúp được gì trong việc đọc – hiểu các văn bản tác phẩm văn học tương ứng trong sách giáo khoa Ngữ văn không? Phân tích một vài ví dụ để làm sáng tỏ.
 
12. 
Những kiến thức và kĩ năng về các tác phẩm tự sự của phần Đọc – hiểu văn bản và Tiếng Việt tương ứng đã giúp em những gì trong việc viết bài văn tự sự? Phân tích một vài ví dụ để làm sáng tỏ.
Lời giải:

Giải câu 7 – trang 220 SGK ngữ văn 9 tập 1: Các nội dung văn bản tự sự đã học ở lớp 9 có gì giống và khác so với các nội dung về kiểu văn bản này đã học ở những lớp dưới?

Trả lời

Các nội dung về văn bản tự sự đã học ở lớp 9 so với các nội dung về kiểu văn bản này đã học ở các lớp dưới:
* Giống: Đều vẫn lấy tự sự (kể chuyện) là phương thức biểu đạt chính, làm nên thành phần cơ bản của văn bản tự sự.
* Khác: Chương trình Ngữ văn 9 giới thiệu các thành phần khác trong văn bản tự sự như miêu tả (tả cảnh, tả nội tâm), nghị luận, đối thoại, độc thoại, người kể chuyện. Các thành phần này bổ sung cho nhau và bổ sung cho thành phần tự sự, làm cho tác phẩm hấp dẫn, sinh động.
Giải câu 8 – trang 220 SGK ngữ văn 9 tập 1: Giải thích tại sao trong một văn bản có đủ các yếu tố miêu tả, biểu cảm, nghị luận mà vẫn gọi đó là văn bản tự sự. Theo em, liệu có một văn bản nào chỉ vận dụng một phương thức biểu đạt duy nhất không?
Trả lời

Trong một văn bản tự sự, dù có đủ miêu tả, biểu cảm, nghị luận nhưng nếu tự sự là chính thì vẫn là văn bản tự sự bởi vì tự sự quy tụ, chi phối các thành phần khác. Các thành phần khác phụ trợ cho tự sự.
Tên gọi cho một loại văn bản căn cứ vào phương thức biểu đạt chính. Bên cạnh phương thức chính bao giờ cũng có những phương thức khác. Có thể nói, hầu như không có một văn bản nào chỉ vận dụng một phương thức biểu đạt duy nhất.

Câu 9 – trang 220 SGK ngữ văn 9 tập 1: Kẻ lại bảng sau vào vở và đánh dấu (x) vào các ô trống mà kiểu văn bản chính có thể kết hợp với các yếu tố tương ứng trong nó (chẳng hạn tự sự có thể kết hợp với miêu tả thì đánh dấu vào ô thứ hai).
Trả lời

STT

Kiểu văn bản chính

 

Các yếu tố kết hợp với văn bản chính

Tự sự

Miêu tả

Nghị luận

Biểu cảm

Thuyết minh

Điều hành

1

Tự sự

 

x

x

x

x

 

2

Miêu tả

x

 

 

x

x

 

3

Nghị luận

 

x

 

x

x

 

4

Biểu cảm

x

x

x

 

 

 

5

Thuyết minh

 

x

x

 

 

 

6

Điều hành

 

 

 

 

 

 


Câu 10 – trang 220 SGK ngữ văn 9 tập 1: Một số tác phẩm tự sự được học trong sách giáo khoa Ngữ văn từ lớp 6 đến lớp 9 không phải bao giờ cũng phân biệt rõ bố cục ba phần: Mở bài, Thân bài, và Kết bài. Tại sao bài tập làm văn tự sự của học sinh vẫn phải có đủ ba phần đã nêu?
Trả lời

Trong một số văn bản tự sự được học trong SGK Ngữ văn từ lớp 6 đến lớp 9 không phải bao giờ cũng có đủ bố cục Mở bài - Thân bài - Kết bài nhưng bài làm của học sinh vẫn phải có đủ ba phần như thế vì học sinh đang học phân môn Tập làm văn, nghĩa là đang tập làm văn, phải rèn vào cái chuẩn mực, khuôn mẫu. Khi nào thành thạo, mới có thể phá bỏ khuôn khổ để sáng tạo.

Câu 11 – trang 220 SGK ngữ văn 9 tập 1: Những kiến thức và kĩ năng về kiểu văn bản tự sự của phần Tập làm văn có giúp được gì trong việc đọc – hiểu các văn bản tác phẩm văn học tương ứng trong sách giáo khoa Ngữ văn không? Phân tích một vài ví dụ để làm sáng tỏ.
Trả lời

Những kiến thức và kĩ năng về văn bản tự sự của phần Tập làm văn giúp ích rất nhiều cho việc học các văn bản trong phần Văn học vì nó cho ta những đặc điểm chung của phương thức phản ánh của thể loại văn học này, để từ đó ta có cách đi vào các nội dung ý nghĩa cũng như vẻ đẹp nghệ thuật của tác phẩm. 
Ví dụ: Khi đọc “Truyện Kiều”, ta thấy Nguyễn Du kết hợp kể chuyện với tả cảnh, tả tình (nội tâm nhân vật) rất tài tình. Có thể so sánh một số đoạn với “Kim Vân Kiều truyện” để thấy rõ điều đó. Chẳng hạn đoạn Kiều gặp Kim Trọng sau đây:
“Thúy Kiều vạch bài thơ xong, hãy còn nấn ná chưa muốn về, bỗng thấy một chàng thư sinh cưỡi ngựa tư xa tiến đến. Vương Quan nhận ra là Kim Trọng, một bạn đồng song chí thiết với mình, nhưng không ngờ anh chàng lại chủ ý tìm tới đây, nên vội nói với hai chị:
Kìa! Có anh Kim Trọng đến, các chị hãy tạm lánh đi!
Thúy Kiều thoạt nghe, ngước mắt nhìn Kim Trọng, thấy dáng vẻ người hào hoa phong nhã, đang giong ngựa tiến đến, liền cùng Thúy Vân lảng ra sau mộ
(Lược một đoạn: Kim Trọng đòi Vương cho gặp hai chị. Hai nàng ra chào, e lệ. Kim Trọng đáp lễ xong cũng lui ra.)
Bị sắc đẹp quyến rũ, Kim Trọng bất giác thần hồn phiêu bạt, nghĩ thầm: “Nọc tương tư này tai hại lắm đây”. Lại âm thầm phát thệ: “Mình mà không được hai nàng làm vợ thì suốt đời sẽ chẳng lấy ai”. Nhưng vì ngại có Vương Quan, không tiện đứng lâu, đành cùng nhau từ biệt.
Đồng thời Vương Viên ngoại cũng sai người đem kiệu đến đón con. Hai nàng lên kiệu về nhà.”
(Kim Vân Kiều truyện - Thanh Tâm Tài Nhân)
* Đoạn Kiều gặp Kim Trọng trong “Truyện Kiều”:
“Dùng dằng nửa ở nửa về
Nhạc vàng đâu đã tiếng nghe gần gần
Trông chừng thấy một văn nhân
Lỏng buông tay khấu bước lần dặm băng
Đề huề lưng túi gió trăng
Sau chân theo một vài thằng con con
Tuyết in sắc ngựa câu giòn
Cỏ pha màu áo nhuộm non da trời
Nẻo xa mới tỏ mặt người
Khách đà xuống ngựa tới nơi tự tình
Hài văn lần bước dặm xanh
Một vùng như thể cây quỳnh cành dao
Chàng Vương quen mặt ra chào
Hai Kiều e lệ nép vào dưới hoa
…………………….
Trộm nghe thơm nức hương lân
Một nền đồng tước khóa xuân hai Kiều
Nước non cách mấy buồng thêu
Những là trộm dấu thầm yêu chốc mòng.
May thay giải cấu tương phùng
Gặp tuần đố lá thỏa lòng tìm hoa.
Bóng hồng nhác thấy nẻo xa
Xuân lan, thu cúc mặn mà cả hai.
Người quốc sắc, kẻ thiên tài,
Tình trong như đã mặt ngoài còn e.
Chập chờn cơn tỉnh cơn mê
Rốn ngồi chẳng tiện dứt về chỉn khôn
Bóng tà như giục cơn buồn
Khách đà lên ngựa người còn ghé theo
Dưới cầu nước chảy trong veo
Bên cầu tơ liễu bóng chiều thướt tha.
(Truyện Kiều - Nguyễn Du).Ta dễ dàng nhận thấy trong đoạn này, “Kim Vân Kiều truyện” chú trọng “chuyện” (tự sự) hơn là tình, nên tả cảnh, tả người, tả tâm trạng nói chung sơ lược, khuôn sáo; với “Truyện Kiều”, Nguyễn Du làm ngược lại, chuyện ít tình nhiều. Nếu tác giả “Kim Vân Kiều truyện” chỉ cho Kim Trọng say mê Kiều từ cái nhìn đầu tiên thì Nguyễn Du lại cho cả Kiều cũng như vậy. Nhưng cái đắm say của một cô gái đoan trang, vốn quen “Êm đềm trướng rủ màn che” thì phải kín đáo. Cho nên ngoài chi tiết miêu tả trực tiếp “Khách đà lên ngựa người còn ghé theo”, Nguyễn Du chủ yếu lấy cảnh tả tâm trạng: Dưới con mắt nàng, sự xuất hiện của chàng làm cho một vùng bóng chiều buồn bã và đầy “âm khí nặng nề’ bỗng “như thể cây quỳnh cành dao”, tươi tắn, rạng rỡ hẳn lên. Ấy là bởi sự cảm mến mãnh liệt con người “Thông tư tài mạo tót vời - Vào trong phong nhã ra ngoài hào hoa”.

Câu 12 – trang 220 SGK ngữ văn 9 tập 1: Những kiến thức và kĩ năng về các tác phẩm tự sự của phần Đọc – hiểu văn bản và Tiếng Việt tương ứng đã giúp em những gì trong việc viết bài văn tự sự? Phân tích một vài ví dụ để làm sáng tỏ.
Trả lời

Những kiến thức và kĩ năng về tác phẩm tự sự của phần Đọc - hiểu văn bản và phần Tiếng Việt tương ứng giúp ích rất nhiều cho việc viết bài văn tự sự. Ví dụ, “Truyện Kiều” cho ta cách kể theo trật tự thời gian, cách ưu tiên kể về nhân vật chính, cách nhấn lướt tùy loại sự kiện. Truyện ngắn “Chiếc lược ngà” cho ta cách xây dựng tình huống truyện, cách lồng các câu chuyện trong một truyện. Truyện ngắn “Làng” có ngôn ngữ giản dị mà hóm hỉnh của người kể chuyện.
+ Mở rộng xem đầy đủ