Soạn bài Ngẫu nhiên viết nhân buổi mới về quê Hồi hương ngẫu thư

1. Qua tiêu đề bài thơ, có thể thấy sự biểu hiện tình quê hương ở bài thơ này có gì độc đáo?
(Gợi ý: so sánh với tình huống thể hiện tình quê hương trong bài Tĩnh dạ tứ.)
 
2.
Chứng minh hai câu đầu đã dùng phép đối trong câu (còn gọi là tiểu đối, tự đối).Nêu tác dụng của việc dùng phép đối ấy.
Lưu ý: Ở thơ ngũ ngôn và thất ngôn, số chữ của hai vế đối nhau trong câu không bằng nhau, tuy vậy, xét về mặt từ loại và cú pháp, vẫn có thể đối rất chỉnh.
 
3. Kẻ lại bảng sau vào vở và đánh dấu X vào ô mà em cho là hợp lí:
 
 
4. Sự biểu hiện của tình quê hương ở hai câu trên và hai câu dưới có gì khác nhau về giọng điệu?
(Gợi ý: Phân tích xem vì sao chỉ có nhi đồng xuất hiện và sự xuất hiện đó cùng tiếng cười, câu hỏi hồn nhiên, thơ ngây của các em có làm tác giả vui lên không.)
Lời giải:
* Nội dung:
 Bài thơ thể hiện một cách chân thực mà sâu sắc, hóm hỉnh mà ngậm ngùi tình yêu quê hương thắm thiết của một người sống xa quê lâu ngày, trong khoảnh khắc vừa mới đặt chân trở về quê cũ.
 
 I. Đọc hiểu văn bản:
Câu 1: Qua tiêu đề bài thơ, có thể thấy sự biểu hiện tình quê hương ở bài thơ này có gì độc đáo?
  Nếu như trong "Tĩnh dạ tứ" là một nỗi niềm nhớ quê đau đớn; khi ở xa quê, nhìn ánh trăng, vầng trăng mà thao thức thì ở đây nhà thơ về ngay trên quê và bị sốc thật sự vì mình không thể ngờ như vậy.
- Từ ngẫu  nghĩa là ngẫu nhiên. Thực ra cũng có quan hệ với thư: ngẫu thư nghĩa là ngẫu nhiên viết chứ không phải tình cảm  bộc lộ ngẫu nhiên. Như vậy, tác giả không có ý định làm thơ khi đặt chân tới quê hương của mình.  Chính vì khi bị gọi là khách  thì tác giả mới ngỡ ngàng, choáng váng. Đây là duyên cớ có tính ngẫu nhiên khiến tác giả viết bài thơ. Để thấy rằng đằng sau sự ngẫu hứng này chính là một tình yêu quê hương sâu nặng, thường trực lúc nào cũng muốn bộc lộ. Cho nên chỉ cần có một  tình huống chân thực mà phi lí như cuối bài thì tình yêu với quê hương có cơ hội bộc lộ.
 
Câu 2: Chứng minh hai câu đầu đã dùng phép đối trong câu (còn gọi là tiểu đối, tự đối).Nêu tác dụng của việc dùng phép đối ấy.   
  Hai câu đầu của bài thơ này có hình thức tiểu đối: Thiếu tiểu li gia / lão đại hồi, Hương âm vô cải / mấn mao tồi. Hai câu đối, mỗi câu hai vế, mỗi vế có hai bộ phận đối nhau rất chỉnh. Lí gia đối với đại hồi, hương âm đối với mấn mao là chỉnh cả ý lẫn lời ; thiếu tiểu đối với lão, vô cải đối với tồi. Tuy có hơi chênh về lời song về ý rất chỉnh (thiếu tiểu: còn nhỏ ; lão: về già ; vô cải: không thay đổi ; tồi: chỉ sự thay đổi). Xét về ý nghĩa ngữ pháp, thiếu tiểulão đều là chủ ngữ cũng như vô cảitồi đều là vị ngữ, hai câu đối đọc lên nghe rất hài hoà.  Hình thức tiểu đối trong hai câu này đã giúp nhà thơ thể hiện những ý nghĩa rất khái quát trong một lượng câu chữ ít ỏi. Câu thơ đầu nói về quãng thời gian gần suốt cả cuộc đời xa quê đồng thời hé lộ tình cảm quê hương của nhà thơ. Câu thơ thứ hai dùng một yếu tố thay đổi (mái tóc) để làm nổi bật yếu tố không thay đổi (tiếng nói quê hương). Nói hương âm vô cải là đã động đến phần tinh tế trong sâu thẳm tâm hồn (người thấy tiếng nói quê hương không thay đổi qua mấy chục năm trời hẳn là người luôn nghĩ về quê hương).
Câu 3:
 
 
- Câu 2 là câu miêu tả: về sự thay đổi của mái tóc nhưng "giọng" quê, tình cảm sâu nặng với quê vẫn vậy.
- Câu 1 là kể khái quát, ngắn gọn quãng đời xa quê, làm quan nổi bật sự thay đổi vóc dáng, tuổi tác, hé lộ những tình cảm quê hương của nhà thơ. Đó là cảm xúc buồn buồn , bồi hồi trước sự chay trôi của thời gian.
 
Câu 4: Sự biểu hiện của tình quê hương ở hai câu trên và hai câu dưới có gì khác nhau về giọng điệu?
Sự khác nhau về giọng điệu biểu đạt ở hai câu trên và hai câu dưới:
– Hai câu trên:
“Trẻ đi, già trở lại nhà
Giọng quê không đổi, sương pha mái đầu”
Giọng điệu miêu tả, tự sự và thoáng chút ngậm ngùi, tâm sự của người con xa quê lâu ngày nay mới được trở về.
– Hai câu dưới:
“Trẻ con nhìn lạ không chào
Hỏi rằng: Khách ở chốn nào lại chơi?”
Giọng điệu hóm hỉnh, bi hài:
+ Sự ngây thơ, hồn nhiên của trẻ thơ.
+ Hoàn cảnh trớ trêu, bị gọi là khách ngay trên quê nhà.
+ Cảm giác bơ vơ, lạc lọng khi trở về quê không còn người thân thích, quen biết, nỗi ngậm ngùi đau xót.+ Câu hỏi hồn nhiên của các em nhỏ làm cho tác giả vừa vui, vừa buồn.
 
II. Luyện tập
 
So sánh hai bản dịch thơ của Phạm Sĩ Vĩ và Trần Trọng San:
– Giống nhau:
Cả hai bản dịch đều sử dụng thể thơ lục bát.
Sát với bản dịch nghĩa.
– Khác nhau:
 
Chi tiết tóc mai rụng:
 
Bản dịch của Phạm Sĩ Vĩ: Dịch thành “tóc đà khác xưa” (chưa thể hiện được cụ thể nội dung trong nguyên tác).
Bản dịch của Trần Trọng San: Dịch thành “sương pha mái đầu” (cũng chưa đạt).
 
Câu thứ ba và thứ tư:
 
+ Bản dịch của Phạm Sĩ Vĩ:
Chưa dịch được tiếng cười hồn nhiên của đám trẻ con khi chúng đưa ra câu hỏi với tác giả.
Không dịch được sát ý thơ: “tương kiến, bất tương thức” (gặp nhau, không biết nhau).
+ Bản dịch của Trần Trọng San: Ở hai câu này dịch sát với nguyên tác hơn.