Soạn bài Sau phút chia li Trích Chinh phụ ngâm khúc

1. Căn cứ vào lời giới thiệu sơ lược về thể song thất lục bát ở chú thích (*), hãy nhận dạng thể thơ của đoạn thơ dịch được trích về số câu, số chữ trong các câu, cách hiệp vần trong một khổ thơ.


2. Qua 4 câu khổ đầu, nỗi sầu chia li của người vợ đã được gợi tả như thế nào? Cách dùng phép đối Chàng thì đi - Thiếp thì về và việc sử dụng hình ảnh “tuôn màu mây biếc, trải ngàn núi xanh” có tác dụng gì trong việc gợi tả nỗi sầu chia li đó?


3. Qua 4 câu khổ thứ hai, nỗi sầu đó được gợi tả thêm như thế nào? Cách dùng phép đối còn ngảnh (ngoảnh) lại – hãy trông sang trong hai câu 7 chữ, cách điệp và đảo vị trí của hai địa danh Hàm Dương – Tiêu Tương còn ý nghĩa gì trong việc gợi tả nỗi sầu chia li?


4. Qua 4 câu khổ cuối, nỗi sầu đó còn được tiếp tục gợi tả và nâng lên như thế nào?  Các điệp từ cùng, thấy trong hai câu 7 chữ và cách nói về ngàn dâu, màu xanh của ngàn dâu có tác dụng gì trong việc gợi tả nỗi sầu chia li?


5. Hãy chỉ ra một cách đầy đủ các kiểu điệp ngữ trong đoạn thơ và nêu lên tác dụng biểu cảm của các điệp ngữ đó.


6. Từ những phân tích trên, em hãy phát biểu về cảm xúc chủ đạo, về ngôn ngữ và giọng điệu của đoạn thơ.

Lời giải:
* Về thể loại
 
  Thể thơ ngâm khúc: Một thể loại thơ ca do người Việt Nam sáng tạo ra, hầu như chỉ để diễn tả những tâm trạng sầu bi dằng dặc của con người vốn rất phổ biến trong thời trung đại, khi các triều đại phong kiến lâm vào tình trạng mâu thuẫn, khủng hoảng thường gây ra muôn vàn nỗi khổ cực cho nhân dân. Tiêu biểu cho thể loại này của văn học trung đại Việt Nam có hai tác phẩm lớn: Chinh phụ ngâm khúc của. Đặng Trần Côn và Cung oán ngâm khúc của Nguyễn Gia Thiều.
Câu 1 trang 92 - SGK Ngữ văn 7 tập 1: Căn cứ vào lời giới thiệu sơ lược về thể song thất lục bát ở chú thích (*), hãy nhận dạng thể thơ của đoạn thơ dịch được trích về số câu, số chữ trong các câu, cách hiệp vần trong một khổ thơ.

 Bài thơ được viết theo thể song thất lục bát: một khổ 4 câu với hai câu 7 tiếng (song thất) và một cặp 6-8 (lục bát).
 
   - Hiệp vần :
       + Chữ cuối của câu 7 trên vần dưới chữ thứ 5 câu 7 dưới
       + Chữ cuối của câu 6 vần với chữ thứ 6 của câu 8
       + Chữ cuối của câu 8 vần với chữ thứ 5 câu 7 của khổ tiếp theo.
Câu 2 trang 92 - SGK Ngữ văn 7 tập 1: Qua 4 câu khổ đầu, nỗi sầu chia li của người vợ đã được gợi tả như thế nào? Cách dùng phép đối Chàng thì đi - Thiếp thì về và việc sử dụng hình ảnh “tuôn màu mây biếc, trải ngàn núi xanh” có tác dụng gì trong việc gợi tả nỗi sầu chia li đó?

 

-  Khổ thơ đầu là nỗi trống trải của lòng người trước cuộc chia li phũ phàng. Phép đối Chàng thì đi – Thiếp thì về thể hiện sự cách trở ngang trái.

+ Chàng sẽ đi vào cõi xa xăm, vất vả

+ Còn Thiếp trở về vò võ một mình trong căn phòng trống.

  - Sự ngăn cách giữa Chàng và Thiếp qua đôi mắt trông theo Chàng của người ở lại thật khắc nghiệt và nặng nề. Tư tưởng như phủ lên màu biếc của rmây trời, trải vào màu xanh của núi ngàn. Hai hình ảnh biển và núi xanh tạo cái mênh mông cho  nỗi đau buồn vì chia li.

 

Câu 3 trang 92 - SGK Ngữ văn 7 tập 1: Qua 4 câu khổ thứ hai, nỗi sầu đó được gợi tả thêm như thế nào? Cách dùng phép đối còn ngảnh (ngoảnh) lại – hãy trông sang trong hai câu 7 chữ, cách điệp và đảo vị trí của hai địa danh Hàm Dương – Tiêu Tương còn ý nghĩa gì trong việc gợi tả nỗi sầu chia li?

 

  Nỗi sầu như thể nhân lên bất tận, trong 4 câu khổ cuối, điệp từ (cùng) được thể hiện ở dạng đồng hướng (chẳng thấy). Cái màu “mây biếc”, “ngàn núi xanh” vừa mới ở trên thoắt bây giờ đã chỉ “thấy xanh xanh”. Thấy mà không thấy, bởi vì cái màu sắc được điệp (và cũng là láy) ấy chỉ là “những mấy ngàn dâu”. Thêm một lần nữa, không chỉ lặp từ, mà còn kết hợp lặp với đảo ngữ: “Ngàn dâu xanh ngắt một màu”, câu thơ diễn tả điều “thấy” ấy là vô vọng, và cuối cùng, một câu hỏi tu từ, hỏi chính là trả lời về nỗi sầu tràn ngập cả “lòng chàng” và “ý thiếp”.
 

 

Câu 4 trang 93 - SGK Ngữ văn 7 tập 1:  Qua 4 câu khổ cuối, nỗi sầu đó còn được tiếp tục gợi tả và nâng lên như thế nào?  Các điệp từ cùng, thấy trong hai câu 7 chữ và cách nói về ngàn dâu, màu xanh của ngàn dâu có tác dụng gì trong việc gợi tả nỗi sầu chia li?

  Nỗi sầu như thể nhân lên bất tận, trong 4 câu khổ cuối, điệp từ (cùng) được thể hiện ở dạng đồng hướng (chẳng thấy). Cái màu “mây biếc”, “ngàn núi xanh” vừa mới ở trên thoắt bây giờ đã chỉ “thấy xanh xanh”. Thấy mà không thấy, bởi vì cái màu sắc được điệp (và cũng là láy) ấy chỉ là “những mấy ngàn dâu”. Thêm một lần nữa, không chỉ lặp từ, mà còn kết hợp lặp với đảo ngữ: “Ngàn dâu xanh ngắt một màu”, câu thơ diễn tả điều “thấy” ấy là vô vọng, và cuối cùng, một câu hỏi tu từ, hỏi chính là trả lời về nỗi sầu tràn ngập cả “lòng chàng” và “ý thiếp”. Chữ sầu ở dòng cuối đã đúc thành một khối sầu. Hình thức nghi vấn " Ai sầu hơn ai?" đã nhấn mạnh tâm trạng sầu đau của người chinh phụ lên tới cực độ.

 

 

Câu 5 trang 93 - SGK Ngữ văn 7 tập 1: Hãy chỉ ra một cách đầy đủ các kiểu điệp ngữ trong đoạn thơ và nêu lên tác dụng biểu cảm của các điệp ngữ đó.

- Các điệp ngũ trong đoạn thơ “Sau phút chia li”:
+ Điệp ngữ “chàng” và “thiếp” (được kết hợp ngược chiều trong câu “chàng thì đi…thiếp thì về” hoặc được kết hợp chéo trong cụm từ “lòng chàng ý thiếp”).+ Các điệp ngữ Tiêu Tương – Hàm Dương, cùng – cùng, ngàn dâu – ngàn dâu, xanh ngắt – xanh ngắt.– Tập trung phân tích hai các tác dụng sau:+ Tạo nhạc điệu trầm buồn cho thơ, phù hợp với nỗi sầu chia cách của người chinh phụ.
+ Góp phần diễn tả tính chất hai mặt của nỗi sầu chia li: gắn bó mà phải xa cách.
 Các vị trí lặp rất đa dạng cho thấy tâm trạng đau buồn cũng rất phức tạp. Những nỗi sầu muộn này đã giày vò người chinh phụ từ nhiều phía. Ở bất cứ thời gian nào, nhìn bất cứ sự vật nào lòng người cũng tái tê rớm lệ.
 

 

Câu 6 trang 93 - SGK Ngữ văn 7 tập 1: Từ những phân tích trên, em hãy phát biểu về cảm xúc chủ đạo, về ngôn ngữ và giọng điệu của đoạn thơ.

– Toàn bộ đoạn thơ tập trung thể hiện nỗi sầu chia li của người chinh phụ sau khi tiễn đưa chồng, đó là nỗi buồn sâu thẳm và vô tận.– Nỗi sầu này tập trung thể hiện cao nhất ở câu cuối. Câu hỏi tu từ, ‘hỏi nhưng chính là đã trả lời về nỗi sầu đã tràn ngập cả lòng chàng và ý thiếp” chứ không nhằm mục đích so sánh ai sầu hơn ai.– Chữ “sầu” trong câu cuối kết đúc lại trở thành khối sầu thương nặng trĩu trong lòng người chinh phụ.
– Giọng điệu bài thơ thể hiện nỗi buồn da diết, sâu lắng.

Luyện tập
Câu 1 trang 93 - SGK Ngữ văn 7 tập 1: Hãy phân tích màu xanh trong đoạn thơ bằng cách:
a) Ghi đủ các từ chỉ màu xanh.
b) Phân biệt sự khác nhau trong các màu xanh.
c) Nêu tác dụng của việc sử dụng màu xanh trong việc diễn tả nỗi sầu chia li của người chinh phụ.
 
Trả lời:
 
a) Các từ chỉ màu xanh được dùng khá nhiều trong đoạn trích: mây biếc, núi xanh, xanh xanh (ngàn dâu), xanh ngắt (ngàn dâu).
b) Sự khác nhau của các từ chỉ màu xanh là ở chỗ nó chỉ những sự vật hiện tượng khác nhau, do đó nó có nội hàm ý nghĩa khác nhau. Đồng thời các từ cũng miêu tả màu xanh ở các mức độ khác nhau.
 + Màu mây biếc là màu xanh lam đậm và tươi ánh lên
 + Màu của núi xanh là màu của lá cây, nước biếc.
 + Xanh xanh là màu nhạt thiếu ấn tượng.
 + Xanh ngắt là xanh thuần một màu trên diện rộng.
c) Tác dụng:
– Các từ: mây biếc, núi xanh gợi tả cái mênh mông, rộng lớn của không gian, tương ứng với nỗi sầu chia li không thể có lời nào nói hết được của người thiếu phụ.
– Hai từ còn lại miêu tả màu của ngàn dâu với mức độ tăng tiến (xanh xanh, xanh ngắt) vừa có ý nghĩa tượng trưng chỉ một linh cảm về sự cách xa vĩnh viễn (màu xanh của ngàn dâu trong thơ ca trung đại thường ngụ ý chỉ những đổi thay to lớn – có thể tìm hiểu thêm câu thành ngữ Thương hải biến vi tang điền (biển xanh biến thành nương dâu), hàm ý chỉ sự đổi thay to lớn), vừa gợi ra khoảng cách xa vời vợi và nỗi sầu ngày càng vừa lan toả, vừa thẳm sâu của người vợ khi chồng đã cất bước ra đi.
+ Mở rộng xem đầy đủ