Soạn bài Bài ca Côn Sơn Nguyễn Trãi

1. Em hãy dựa vào lời giới thiệu sơ lược về thể thơ lục bát ở chú thích (*) để nhận dạng thể thơ của đoạn thơ được trích dịch trong Bài ca Côn Sơn về số câu, số chữ trong câu, cách gieo vần.
 
2.
Em hãy đếm trong đoạn thơ có mấy từ ta và trả lời các câu hỏi:
a) Nhân vật ta là ai?
b) Hình ảnh và tâm hồn của nhân vật ta hiện lên trong đoạn thơ như thế nào?
c) Tiếng suối chảy rì rầm được ví với tiếng đàn cầmĐá rêu phơi được ví với chiếu êm. Cách ví von đó giúp em cảm nhận được điều gì về nhân vật ta?
 
3. Cùng với hình ảnh của nhân vật ta, cảnh tượng Côn Sơn được gợi tả bằng những chi tiết nào? Hãy nhận xét về cảnh tượng Côn Sơn.
 
4*. Em có cảm nghĩ gì về hình ảnh nhân vật ta ngâm thơ nhàn trong màu xanh mát của trúc bóng râm? Từ đó, em thử hình dung thi sĩ Nguyễn Trãi ở Côn Sơn là con người thế nào.
 
5. Hãy chỉ ra hiện tượng dùng điệp từ trong đoạn thơ và phân tích tác dụng của điệp từ đối với việc tạo nên giọng điệu của đoạn thơ.
Lời giải:

Tác giả Nguyễn Trãi.

  Nguyễn Trãi (1380 – 1442): hiệu là Ức Trai, con của Nguyễn Phi Khanh, quê gốc ở thôn Chi Ngại, xã Cộng Hòa, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương, sau dời đến làng Nhị Khê, huyện Thường Tín, tỉnh Hà Tây. Ông tham gia khởi nghĩa Lam Sơn với vai trò rất lớn bên cạnh Lê Lợi. Nguyễn Trãi đã trở thành một nhân vật lịch sử lỗi lạc, toàn tài hiếm có. Nhưng cuối cùng ông đã bị giết hại một cách rất oan khốc và thảm thương vào năm 1442. Mãi đến năm 1464, mới được vua Lê Thánh Tông chiêu tuyết (rửa oan). Ông là người Việt Nam đầu tiên được UNESCO (tổ chức Giáo dục, khoa học và văn hóa của Liên Hiệp Quốc) công nhận là danh nhân văn hóa thế giới (năm 1980).
  Nguyễn Trãi để lại một sự nghiệp văn chương đồ sộ và phong phú, trong đó có Bình Ngô đại cáo, Ức Trai thi tập, Quốc âm thi tập, Quân trung từ mệnh tập. Bài ca Côn Sơn (Côn Sơn ca) có nhiều khả năng được sáng tác trong thời gian ông bị chèn ép, đành phải cáo quan về sống ở Côn Sơn. Trong nguyên văn chữ Hán, Côn Sơn ca viết theo thể thơ khác nhưng ở đây được dịch bằng thể thơ lục bát. Lục bát nghĩa là sáu tám – tức sau một câu 6 chữ là một câu 8 chữ và không hạn định số câu. Trong thể thơ này, chữ cuối câu 6 vần với chữ thứ sáu của câu 8, chữ cuối câu 8 của cặp câu trên vần với chữ cuối câu 6 của cặp câu dưới và tính chung cứ hai câu thì đổi vần mà vần là vần bằng. Thể lục bát cũng có luật bằng trắc (sẽ học ở bài 13).
 
I. ĐỌC – HIỂU VĂN BẢN

 
Câu 1 trang 80 - SGK Ngữ văn 7 tập 1: Em hãy dựa vào lời giới thiệu sơ lược về thể thơ lục bát ở chú thích (*) để nhận dạng thể thơ của đoạn thơ được trích dịch trong Bài ca Côn Sơn về số câu, số chữ trong câu, cách gieo vần.
 
  Thể thơ của đoạn thơ được trích dịch trong bài Bài ca Côn Sơn là lục bát. 
- 4 dòng có 6 chữ và 4 dòng có 8 chữ
- Chữ cuối câu 6 vần với chữ 6 câu 8
Ví dụ: rầm vần với cầm
 - Chữ cuối câu 8 của cặp trên vần với chữ cuối câu 6 ở cặp dưới.
Ví dụ êm vần với nêm
- Tất cả những chữ hiệp vần đều thanh bằng.

 
Câu 2 trang 80 - SGK Ngữ văn 7 tập 1: Em hãy đếm trong đoạn thơ có mấy từ ta và trả lời các câu hỏi:
a) Nhân vật ta là ai?
b) Hình ảnh và tâm hồn của nhân vật ta hiện lên trong đoạn thơ như thế nào?
c) Tiếng suối chảy rì rầm được ví với tiếng đàn cầmĐá rêu phơi được ví với chiếu êm. Cách ví von đó giúp em cảm nhận được điều gì về nhân vật ta?
 
Trả lời:
Trong đoạn thơ có năm từ ta.
a) Nhân vật ta là thi sĩ Nguyễn Trãi .
b) Từ việc nghe tiếng suối mà tưởng như tiếng đàn, ngồi trên đá tưởng như ngồi chiếu êm, nằm dưới bóng mát mà ngâm thơ nhàn. Qua những việc đó, nhân vật ta hiện lên với tư cách một con người thảnh thơi rất đa cảm, đang thả mình vào cảnh trí Côn Sơn: một Nguyễn Trãi rất mực thi sĩ.
c) Tiếng suối chảy rì rầm được ví với tiếng đàn cầmĐá rêu phơi được ví với chiếu êm. Cách ví von đó cho thấy tác giả – nhân vật ta – 1 người rất yêu thiên nhiên, có khả năng tưởng tượng độc đáo của một tâm hồn thi sĩ.

 
Câu 3 trang 80 - SGK Ngữ văn 7 tập 1: Cùng với hình ảnh của nhân vật ta, cảnh tượng Côn Sơn được gợi tả bằng những chi tiết nào? Hãy nhận xét về cảnh tượng Côn Sơn.

  Cùng với hình ảnh của nhân vật ta, cảnh tượng Côn Sơn được miêu với các chi tiết: có suối chảy rì rầm, có bàn đá rêu phơi, có rừng trú: xanh, có bóng mát. Côn Sơn đúng là một cảnh trí thiên nhiên khoáng đạt, thanh tĩnh, một cảnh thần tiên cho thi nhân ngồi ngâm thơ nhàn một cách thú vị.

 
Câu 4 trang 80 - SGK Ngữ văn 7 tập 1: Em có cảm nghĩ gì về hình ảnh nhân vật ta ngâm thơ nhàn trong màu xanh mát của trúc bóng râm? Từ đó, em thử hình dung thi sĩ Nguyễn Trãi ở Côn Sơn là con người thế nào.

  Nhân vật ta ngâm thơ nhàn trong màu xanh mát của bóng trúc râm. hình ảnh đó cho thấy một sự giao hòa tuyệt đối giữa con người với cảnh vật. Từ sự giao hòa đó, gợi cho ta nghĩ đến hình ảnh một ông tiên đang rất nhàn, không chút vấn vương thế sự. Đó là một thi sĩ đa tình đang thả trọn vẹn tâm hồn với thiên nhiên. “Nhàn” chính là tâm trạng của tác giả lúc này.
Ta hình dung được Nguyễn Trãi ở Côn Sơn là con người yêu thiên nhiên dù ở ẩn nhưng ông vẫn luôn lo cho đất nước, cho nhân dân. Ông luôn là người có nhân cách thanh cao, phẩm chất thi sĩ và nghệ sĩ ở ông.

 
Câu 5 trang 81 - SGK Ngữ văn 7 tập 1: Hãy chỉ ra hiện tượng dùng điệp từ trong đoạn thơ và phân tích tác dụng của điệp từ đối với việc tạo nên giọng điệu của đoạn thơ.

  Điệp từ “ta”, “Côn Sơn”, “trong”…  trong đoạn trích cho thấy Nguyễn Trãi đang sống những ngày tháng an nhàn, ẩn dật ở Côn Sơn bởi Nguyễn Trãi chỉ có “ta nghe, ta ngồi, ta tìm, ta lên, ta nằm và ta ngâm thơ”.
=> Tất cả các điệp ngữ góp phần tích cực làm cho đoạn thơ có giọng điệu nhẹ nhàng, thảnh thơi, êm ái.
 
II. LUYỆN TẬP
Câu 1 trang 81 - SGK Ngữ văn 7 tập 1: Cách ví von tiếng suối của Nguyễn Trãi trong hai câu thơ: “Côn Sơn suối chảy rì rầm, Ta nghe như tiếng đàn cầm bên tai” và của Hồ Chí Minh trong câu thơ “Tiếng suối trong như tiếng hát xa” (Cảnh khuya) có gì giống và khác nhau?

  So sánh cách ví von tiếng suối của Nguyễn Trãi trong hai câu thơ “Côn Sơn suối chảy rì rầm, ta nghe như tiếng đàn cầm bên tai” và của Hồ Chí Minh trong câu thơ “Tiếng suối trong như tiếng hát xa”, ta thấy có những điểm sau: 
   - Cả hai đều bộc lộ tâm hồn thi sĩ của tác giả trong việc đón nhận tiếng suối. Cả hai tâm hồn đều có khả năng hòa nhập với thiên nhiên, đều nghe tiếng suối mà như nghe nhạc trời. Tuy nhiên âm nhạc ở đây  một tiếng đàn cầm (Nguyễn Trãi) một là tiếng hát ( Hồ Chí Minh). Dù là đàn cầm hay tiếng hát thì cũng là  giai điệu tuyệt vời của âm nhạc.

 
Câu 2 trang 80 - SGK Ngữ văn 7 tập 1: Học thuộc lòng đoạn trích Bài ca Côn Sơn.

Học sinh học tự thuộc lòng đoạn trích Bài ca Côn Sơn.
+ Mở rộng xem đầy đủ