Soạn bài Bài ca ngất ngưởng Nguyễn Công Trứ
Hướng dẫn học bài
1. Trong Bài ca ngất ngưởng, từ "ngất ngưởng" được sử dụng mấy lần? Anh (chị) hãy xác định nghĩa của từ "ngất ngưởng" qua các văn cảnh sử dụng đó.
2. Dựa vào văn bản Bài ca ngất ngưởng, anh (chị) hãy giải thích vì sao Nguyễn Công Trứ biết rằng việc làm quan là gò bó, mất tự do (vào lồng) nhưng vẫn ra làm quan.
3. Ở bài hát nói này, Nguyễn Công Trứ tự kể về mình. Vì sao ông cho mình là ngất ngưởng? Ông đánh giá sự ngất ngưởng của mình như thế nào?
4. Hãy chỉ ra những nét tự do của thể hát nói so với thơ Đường luật và cho biết ý nghĩa của tính chất tự do đó.3. Ở bài hát nói này, Nguyễn Công Trứ tự kể về mình. Vì sao ông cho mình là ngất ngưởng? Ông đánh giá sự ngất ngưởng của mình như thế nào?
Luyện tập
Theo anh (chị), so với Bài ca phong cảnh Hương Sơn (bài đọc thêm, tr.50), Bài ca ngất ngưởng có sự khác biệt gì về mặt từ ngữ.
Lời giải:
I. Tìm hiểu tác phẩm
1. Tác giả
- Nguyễn Công Trứ (1778-1858) tự là Tồn Chất, hiệu Ngộ Trai, biệt hiệu là Hi Văn
- Ông xuất thân trong một gia đình Nho học tại tỉnh Hà Tĩnh
- Những sáng tác của ông chủ yếu bằng chữ Nôm. Thể loại ưa thích của ông là hát nói. Ông là người đầu tiên đã có công đem đến cho hát nói một nội dung phù hợp với chức năng và cấu trúc của nó
2. Tác phẩm
- “Bài ca ngất ngưởng được sáng tác trong thời gian sau khi ông về hưu (năm 1848)
- Thể loại: Ca trù- hát nói
- Chủ đề: “Bài ca ngất ngưởng” thể hiện bản lĩnh cứng cỏi, sự thức tỉnh ý thức cá nhân và thể hiện rõ một nhân sinh quan tiến bộ hiện đại.
II. Hướng dẫn học bài
Câu 1 trang 39 SGK Ngữ Văn 11 tập 1: Trong Bài ca ngất ngưởng, từ "ngất ngưởng" được sử dụng mấy lần? Anh (chị) hãy xác định nghĩa của từ "ngất ngưởng" qua các văn cảnh sử dụng đó.
Trả lời:
- Trong bài thơ từ ngất ngưởng được sử dụng bốn lần (không tính nhan đề) - Ngất ngưởng trong ngữ cảnh bài thơ có thể hiểu là sự ngang tàng, sự phá cách. Tác giả thể hiện sự ngất ngưởng là vì tác giả cho rằng mình hơn người - những kẻ quyền thế, quan cao chức trọng.- Ngất ngưởng cũng còn có nghĩa là sống theo ý thích mà không quan tâm đến sự đàm tiếu của dư luận (hai sự việc: cưỡi bò vàng đeo nhạc ngựa và cùng các cô hầu gái lên chùa). Lối sống ấy thể hiện bản lĩnh cá nhân trong xã hội Nho giáo đề cao lễ nghĩa, thủ tiêu cá nhân.
Câu 2 trang 39 SGK Ngữ Văn 11 tập 1: Dựa vào văn bản Bài ca ngất ngưởng, anh (chị) hãy giải thích vì sao Nguyễn Công Trứ biết rằng việc làm quan là gò bó, mất tự do (vào lồng) nhưng vẫn ra làm quan.
Trả lời:
- Nguyễn Công Trứ biết làm quan và mất tự do, như chim lồng cá chậu (Ông Hi Văn tài bộ đã vào lồng). Thế nhưng ông vẫn ra làm quan vì ông quan niệm đó là nơi để thể hiện tài năng, nơi cống hiến cho triều đình và để ông trọn đạo vua tôi. Tóm lại, ngất ngưởng thực chất là một phong cách sống tôn trọng sự trung thực, cá tính, con người cá nhân, không chấp nhận sống theo những quan niệm gò bó, lỗi thời của Nho giáo.
Câu 3 trang 39 SGK Ngữ Văn 11 tập 1: Ở bài hát nói này, Nguyễn Công Trứ tự kể về mình. Vì sao ông cho mình là ngất ngưởng? Ông đánh giá sự ngất ngưởng của mình như thế nào?
Trả lời:
Nguyễn Công Trứ tự kể về mình: sau khi cởi mũ, cáo quan ra khỏi cuộc sống bó buộc chốn quan trường bon chen, Nguyễn Công Trứ có những hành vi khác thường, kỳ quặc, lập dị:
- Cưỡi bò đi ngao du, đeo ccar đạc ngựa vào cổ bò
- Đến chùa vẫn đeo kiếm cung bên người và mang theo hình bóng giai nhân “một đôi dì”.
=> Cốt cách cao ngạo của một khách tài tử, văn nhân. Đó là lối sống phá cách, thích làm những thứ ngược đời để thể hiện cá tính, thái độ và khát vọng sống tự do tự tại.
- Ông không bận tâm đến những lời khen chê, những chuyện được mất. Coi sự được mất là lẽ thường tình, ông đã ra khỏi vòng danh lợi để sống thảnh thơi, tự do, tự tại để hướng mọi lạc thú, cầm, kỳ, thi, tửu, giai nhân giữa cuộc đời trần thế một cách thoả thích.
=> Con người có ý thức về lối sống của mình. Nguyễn Công Trứ tự hào vì đã có một cuộc sống hoạt động tích cực trong xã hội. Ông cũng tự hào vì mình dám sống cho mình vì mình trong hoàn cảnh lúc bấy giờ.
Câu 4 trang 39 SGK Ngữ Văn 11 tập 1: Hãy chỉ ra những nét tự do của thể hát nói so với thơ Đường luật và cho biết ý nghĩa của tính chất tự do đó.
Trả lời:
So với thể thơ Đường luật, hát nói là thể thơ tự do hơn. Hát nói không có luật chính thức về bằng trắc quy định chặt chẽ như thơ Đường luật.
- Về số câu: Đường luật hạn chế số câu theo thể thơ, hat nói thì không, tuy thông thường trong một bài hát nói có 11 câu nhưng loại lệ khá nhiều (bài này có 19 câu).
- Số chữ: Đường luật quy định số chữ trong trừng câu theo đúng thể loại. Ví dụ thể thất ngôn tứ tuyệt mỗi câu có bảy chữu. Số chữ của hát nói không theo quy định cứng nhắc mà uyển chuyển. Câu dài có thể đến 10 chữ, câu ngắn 6 chữ.
- Về vần, Đường luật theo niêm luật, thanh B – T rõ ràng. Hát nói cũng có sự linh hoạt chứ không hạn vận. Có thể có những cặp đối xứng nhau nhưng bài hát nói không quy định chặt chẽ về về đối.
=> Ý nghĩa: Do tính chất khá tự do nên bài hát nói thích hợp với việc diễn tả những cảm xúc mạnh mẽ, khoáng đạt, phóng túng như lối sống ngất ngưởng.
III. Luyện tập
Theo anh (chị), so với Bài ca phong cảnh Hương Sơn (bài đọc thêm, trang 50 SGK Ngữ Văn 11 tập 1), Bài ca ngất ngưởng có sự khác biệt gì về mặt từ ngữ.
Trả lời:
Sự khác biệt đó là
- Ngôn ngữ của Bài ca ngất ngưởng phóng khoáng, tự do, có chút ngạo nghễ. Ngôn ngữ ấy vừa phù hợp với nội dung, vừa phù hợp với phong cách của Nguyễn Công Trứ.
- Ngôn ngữ của Bài ca phong cảnh Hương Sơn nhẹ nhàng, thấm đẫm ý vị thiền và niềm say mê phong cảnh thiên nhiên đất nước.
+ Mở rộng xem đầy đủ