Soạn bài Tính chuẩn xác, hấp dẫn của văn bản thuyết minh

I. Tính chuẩn xác trong văn bản thuyết minh
1. Lí thuyết
2. Luyện tập
a) Trong một bài thuyết minh về chương trình học, có người viết: “Ở lớp 10 Trung học phổ thông, học sinh chỉ được học văn học dân gian (ca dao, tục ngữ, câu đố)". Viết như thế có chuẩn xác không? Vì sao?
b) Trong câu sau có điểm nào chưa chuẩn xác:
Gọi “Đại cáo bình Ngô” là áng thiên cổ hùng văn vì đó là bài văn hùng tráng đã được viết ra từ nghìn năm trước.
c) Có nên sử dụng văn bản dưới đây để thuyết minh về nhà thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm không? Nếu không thì vì lí do gì?
   Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491-1585) là một trong những ông trạng nổi tiếng nhất của khoa cử Việt Nam. Ông là người làng Trung Am, huyện Vĩnh Lại, tỉnh Hải Dương, nay là xã Lí Học, huyện Vĩnh Bảo, Hải Phòng. Năm 1535, thời Mạc Đăng Doanh, ông đỗ đầu cả ba kì thi. Nhưng ông chỉ làm quan với nhà Mạc có 7 năm, và sau khi dâng sớ xin chém 18 tên quyền thần mà không được, ông xin trí sĩ ở quê nhà. Ở quê, ông mở trường dạy học bên sông Hàn – tức sông Tuyết – nên khi mất, học trò tôn ông làm Tuyết Giang Phu Tử. Mặc dầu ông đã về trí sĩ, nhà Mạc vẫn kính trọng và vẫn hỏi ông về việc nước. Khi ông sắp mất, nhà Mạc có phong cho ông tước Trình Quốc công. Vì thế, người đời sau gọi ông là Trạng Trình.
Trên cơ sở trả lời những câu hỏi đã nêu, hãy cho biết: Một văn bản thuyết minh chuẩn xác cần đáp ứng những yêu cầu nào?
II. Tính hấp dẫn của văn bản thuyết minh
1. Lí thuyết
2. Luyện tập
 (1) Hãy đọc đoạn văn sau đây và thực hiện yêu cầu nêu ở dưới.
Nếu bị tước đi môi trường kích thích bộ não của đứa trẻ phải chịu đựng kìm hãm. Ví dụ, các nhà nghiên cứu tại Trường Đại Học Y Khoa Bai-lo đã phát hiện ra rằng những đứa trẻ ít được chơi đùa hoặc ít được tiếp xúc sẽ có bộ não bé hơn bình thường 20-30% so với lứa tuổi của chúng. Các vật nuôi ở trong phòng thí nghiệm cũng cho thấy điều xảy ra tương tự. Các nhà nghiên cứu tại trường Đại Học I-li-noi ở Ur-ba-na Sam-pa đã phát hiện ra rằng những con chuột con được nuôi trong cũi có rải đồ chơi không những biểu hiện sự ứng xử phức tạp hơn những con chuột nhốt trong những hộp rỗng không có gì hấp dẫn, mà bộ não của những con chuột này còn có số tiếp điểm thần kinh cho mỗi nơ-ron nhiều hơn (tới 25%) so với những con chuột kia. Nói cách khác, càng trải qua nhiều kinh nghiệm càng làm cho bộ não giàu hơn.
(Vũ Đình Cự (Chủ biên),
Giáo dục hướng tới thế kỉ XX)
Phân tích biện pháp làm cho luận điểm Nếu bị tước đi môi trường kích thích, bộ não của đứa trẻ sữ phải chịu đựng sự kìm hãm trở nên cụ thể, dễ hiểu, hấp dẫn.
 
 
(2) Hãy đọc đoạn trích sau đây và phân tích tác dụng tạo hứng thú của việc kể lại truyền thuyết về hòn đảo An Mạ:
Hồ Ba Bể từ lâu đã nổi tiếng là danh lam thắng cảnh bậc nhất ở Việt Nam…
Chuyện kể rằng: Ngày xửa ngày xưa, đã lâu lắm rồi, cả khu vực hồ Ba Bể ngày nay là một vùng trù phú… Rồi bỗng một đêm trời nổi cơn thịnh nộ, mưa đổ ầm ầm, nước sông dâng lên, mặt đất nứt nẻ và sụp xuống làm cho cả vùng dân cư đều bị cuốn theo dòng nước. Duy chỉ có một người đàn bà sống cô đơn, hiền lành, chân thật là thoát nạn, vì bà đã được cảnh báo trước trận hồng thủy sẽ xảy ra. Theo lời dặn, bà góa đã lấy tro rắc quanh nhà và lấy hạt thóc bà tiên để lại cắn đôi thả xuống hồ, vỏ thóc biến thành những chiếc thuyền để cứu người gặp nạn. Cả vùng thung lũng trù phú đã trở thành biển nước mênh mông. Chỉ còn một mảnh đất nhỏ nhoi là khu nhà của người đàn bà sống hiền lành đức độ, người ta gọi đó là Pò Giá Mải (đảo bà góa)… Mảnh đất cuối cùng còn sót lại nằm giữa hồ Hai đất đai màu mỡ là nơi an nghỉ của những người xấu số nơi xảy ra trận hồng thủy năm xưa. Nhân dân trong vùng đã lập đền thờ ở đảo này để tưởng nhớ đến những người đã khuất. Vì vậy hòn đảo có tên là An Mạ (nơi an nghỉ của dân làng).
Đó là truyền thuyết gắn liền với sự hình thành hồ Ba Bể theo cách lí giải của người xưa.
(Theo Bùi Văn Định,
Ba Bể – huyền thoại và sự thật)
 
III. Luyện tập
Đọc đoạn trích trong SGK trang 27 và phân tích tính hấp dẫn của nó.
Khi phân tích, nên lưu ý một số điểm:
– Sự linh hoạt trong việc sử dụng các kiểu câu.
– Việc dùng từ ngữ giàu tính hình tượng.
– Sự kết hợp nhiều giác quan và liên tưởng khi quan sát.
– Cách bộc lộ trực tiếp cảm xúc khi nói về đối tượng.
Lời giải:
I. Tính chuẩn xác của văn bản thuyết minh
1. Lí thuyết: (Học sinh đọc)
2. Luyện tập
a) Trong một bài thuyết minh về chương trình học, có người viết: “Ở lớp 10 Trung học phổ thông, học sinh chỉ được học văn học dân gian (ca dao, tục ngữ, câu đố)". Viết như thế có chuẩn xác không? Vì sao?
b) Trong câu sau có điểm nào chưa chuẩn xác:
Gọi “Đại cáo bình Ngô” là áng thiên cổ hùng văn vì đó là bài văn hùng tráng đã được viết ra từ nghìn năm trước.
c) Có nên sử dụng văn bản dưới đây để thuyết minh về nhà thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm không? Nếu không thì vì lí do gì?
   Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491-1585) là một trong những ông trạng nổi tiếng nhất của khoa cử Việt Nam. Ông là người làng Trung Am, huyện Vĩnh Lại, tỉnh Hải Dương, nay là xã Lí Học, huyện Vĩnh Bảo, Hải Phòng. Năm 1535, thời Mạc Đăng Doanh, ông đỗ đầu cả ba kì thi. Nhưng ông chỉ làm quan với nhà Mạc có 7 năm, và sau khi dâng sớ xin chém 18 tên quyền thần mà không được, ông xin trí sĩ ở quê nhà. Ở quê, ông mở trường dạy học bên sông Hàn – tức sông Tuyết – nên khi mất, học trò tôn ông làm Tuyết Giang Phu Tử. Mặc dầu ông đã về trí sĩ, nhà Mạc vẫn kính trọng và vẫn hỏi ông về việc nước. Khi ông sắp mất, nhà Mạc có phong cho ông tước Trình Quốc công. Vì thế, người đời sau gọi ông là Trạng Trình.
Trên cơ sở trả lời những câu hỏi đã nêu, hãy cho biết: Một văn bản thuyết minh chuẩn xác cần đáp ứng những yêu cầu nào?
Trả lời:
a) Trong một bài thuyết minh về chương trình học, có người viết: “Ở lớp 10 Trung học phổ thông, học sinh chỉ được học văn học dân gian (ca dao, tục ngữ, câu đố)”. Viết như vậy chưa chuẩn xác vì:
– Chương trình Ngữ văn 10 không phải chỉ có văn học dân gian.– Chương trình Ngữ văn 10 về phần văn học dân gian không phải chỉ có ca dao, tục ngữ.– Chương trình Ngữ văn 10 không có câu đố.b) Trong câu gọi “Đại cáo bình Ngô” là áng thiên cổ hùng văn vì đó là bài văn hùng tráng đã được viết ra từ nghìn năm trước.” Trong câu trên, giải thích cụm từ “thiên cổ hùng văn” chưa chuẩn xác vì nó không phù hợp với ý nghĩa thiết thực của cụm từ này. “Thiên cổ hùng văn” “áng hùng văn của nghìn đời” chứ không phải áng hùng văn viết trước đây một nghìn năm.c) Không thể dùng văn bản đã cho trong SGK để thuyết minh về nhà thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm. Vì nội dung của nó không đề cập gì đến Nguyễn Bỉnh Khiêm với tư cách một nhà thơ (ở đây chỉ có phần thân thế, cuộc đời của ông).
II. Tính hấp dẫn của văn bản thuyết minh
1. Lí thuyết : (học sinh đọc)
2. Luyện tập
 
(1) Hãy đọc đoạn văn sau đây và thực hiện yêu cầu nêu ở dưới.
Nếu bị tước đi môi trường kích thích bộ não của đứa trẻ phải chịu đựng kìm hãm. Ví dụ, các nhà nghiên cứu tại Trường Đại Học Y Khoa Bai-lo đã phát hiện ra rằng những đứa trẻ ít được chơi đùa hoặc ít được tiếp xúc sẽ có bộ não bé hơn bình thường 20-30% so với lứa tuổi của chúng. Các vật nuôi ở trong phòng thí nghiệm cũng cho thấy điều xảy ra tương tự. Các nhà nghiên cứu tại trường Đại Học I-li-noi ở Ur-ba-na Sam-pa đã phát hiện ra rằng những con chuột con được nuôi trong cũi có rải đồ chơi không những biểu hiện sự ứng xử phức tạp hơn những con chuột nhốt trong những hộp rỗng không có gì hấp dẫn, mà bộ não của những con chuột này còn có số tiếp điểm thần kinh cho mỗi nơ-ron nhiều hơn (tới 25%) so với những con chuột kia. Nói cách khác, càng trải qua nhiều kinh nghiệm càng làm cho bộ não giàu hơn.
(Vũ Đình Cự (Chủ biên),
Giáo dục hướng tới thế kỉ XX)
Phân tích biện pháp làm cho luận điểm Nếu bị tước đi môi trường kích thích, bộ não của đứa trẻ sữ phải chịu đựng sự kìm hãm trở nên cụ thể, dễ hiểu, hấp dẫn.
Trả lời:
Đoạn văn 1:→ Luận điểm khái quát trở nên dễ hiểu, sinh động và hấp dẫn hơn.
Câu “Nếu bị tước đi … chịu đựng sự kìm hãm” là luận điểm của đoạn văn. Sau câu này, tác giả đưa ra hàng loạt các chi tiết về bộ não của những đứa trẻ ít được đùa, ít được tiếp xúc với xung quanh và bộ não của những con chuột bị nhốt trong hộp rỗng, … để làm sáng tỏ cho luận điểm. Luận điểm khái quát được cụ thể trở nên dễ hiểu, sinh động và hấp dẫn hơn.
 
(2) Hãy đọc đoạn trích sau đây và phân tích tác dụng tạo hứng thú của việc kể lại truyền thuyết về hòn đảo An Mạ:
   Hồ Ba Bể từ lâu đã nổi tiếng là danh lam thắng cảnh bậc nhất ở Việt Nam…
   Chuyện kể rằng: Ngày xửa ngày xưa, đã lâu lắm rồi, cả khu vực hồ Ba Bể ngày nay là một vùng trù phú… Rồi bỗng một đêm trời nổi cơn thịnh nộ, mưa đổ ầm ầm, nước sông dâng lên, mặt đất nứt nẻ và sụp xuống làm cho cả vùng dân cư đều bị cuốn theo dòng nước. Duy chỉ có một người đàn bà sống cô đơn, hiền lành, chân thật là thoát nạn, vì bà đã được cảnh báo trước trận hồng thủy sẽ xảy ra. Theo lời dặn, bà góa đã lấy tro rắc quanh nhà và lấy hạt thóc bà tiên để lại cắn đôi thả xuống hồ, vỏ thóc biến thành những chiếc thuyền để cứu người gặp nạn. Cả vùng thung lũng trù phú đã trở thành biển nước mênh mông. Chỉ còn một mảnh đất nhỏ nhoi là khu nhà của người đàn bà sống hiền lành đức độ, người ta gọi đó là Pò Giá Mải (đảo bà góa)… Mảnh đất cuối cùng còn sót lại nằm giữa hồ Hai đất đai màu mỡ là nơi an nghỉ của những người xấu số nơi xảy ra trận hồng thủy năm xưa. Nhân dân trong vùng đã lập đền thờ ở đảo này để tưởng nhớ đến những người đã khuất. Vì vậy hòn đảo có tên là An Mạ (nơi an nghỉ của dân làng).
Đó là truyền thuyết gắn liền với sự hình thành hồ Ba Bể theo cách lí giải của người xưa.
(Theo Bùi Văn Định,
Ba Bể – huyền thoại và sự thật)
Trả lời:
Đoạn văn 2: 
Tác dụng tạo hứng thú của việc kể lại truyền thuyết hòn đảo An Mạ :
– Tâm lí chung khi tham quan danh lam, thắng cảnh : không chỉ muốn ngắm cảnh đẹp mà còn muốn mở rộng tầm hiểu biết.
– Việc dẫn truyền thuyết về hòn đảo tạo nên tính lịch sử, cho hình ảnh hồ Ba Bể mang màu sắc kì ảo, thần tiên, khiến tâm hồn người nghe thư thái hơn.
Việc kể lại truyền thuyết về hòn đảo An Mạ góp phần làm cho bài thuyết minh hay và hấp dẫn hơn.
III. Luyện tập
Đọc đoạn trích trong “Miếng ngon Hà Nội” và phân tích tính hấp dẫn của nó.
Tính hấp dẫn của đoạn trích thể hiện qua:
+ Sự linh hoạt trong việc sử dụng các kiểu câu: tác giả Vũ Bằng sử dụng nhiều câu dài, ngắn, câu đơn, câu ghép đan xen nhau, sử dụng câu kể lẫn câu cảm (Trông mà thèm quá!) và câu hỏi (Qua lần cửa kính ta đã thấy gì?)
+ Hình ảnh so sánh giàu sức gợi, từ ngữ giàu tính hình tượng: “mùi phở có một sức huyền bí quyến rũ ta như mây khói chùa Hương”, “một bó hành hoa xanh như lá mạ”, “một làn khói tỏa ra khắp gian hàng,…mơ hồ như một bức tranh tàu vẽ những ông tiên ngồi đánh cờ ở trong rừng mùa thu”.
+ Sự kết hợp nhiều giác quan và liên tưởng khi quan sát: nhà văn kết hợp sự rung cảm nhiều giác quan như: khứu giác (ngửi thấy mùi của phở từ đằng xa), thị giác (nhìn thấy những bó hành hoa, dăm quả ớt đỏ, vài miếng thịt bò tươi và mềm qua làn cửa kính).
+ Cách bộc lộ trực tiếp cảm xúc khi nói về đối tượng: thể hiện qua đoạn văn cuối cùng với những từ cảm thán “quá”, “đừng…cho được”, tác giả trực tiếp bộc lộ niềm say mê với món ăn truyền thống của Hà Nội.
+ Mở rộng xem đầy đủ