Soạn bài Luyện tập viết đoạn văn tự sự

I- Đoạn văn trong văn bản tự sự
 
1.
Đoạn văn là bộ phận của văn bản. Trong văn bản tự sự, mỗi đoạn văn thường có câu nêu ý khái quát gọi là câu chủ đề. Các câu khác diễn đạt những ý cụ thể nhằm thuyết minh, miêu tả, giải thích, mở rộng… triển khai làm rõ ý khái quát.
 
2. Mỗi văn bản tự sự thường gồm nhiều đoạn văn với những nhiệm vụ khác nhau:
Đoạn phần mở bài: giới thiệu câu chuyện
Đoạn ở phần thân bài: kể diễn biến sự việc chi tiết.
Đoạn kết bài: tạo ấn tượng mạnh mẽ tới suy nghĩ, cảm xúc người đọc.
 
3. Nội dung mỗi đoạn văn tuy khác nhau (cách tả người, kể sự việc) nhưng đều có chung nhiệm vụ là thể hiện chủ đề và ý nghĩa văn bản.
 
II - Cách viết đoạn văn trong văn bản tự sự
 
1. Trong bài Lập dàn ý  bài văn tự sự, chúng ta được nghe nhà văn Nguyên Ngọc kể: cái truyện này sẽ bắt đầu bằng một khu rừng xà nu – mà tôi ra sức tả một cách hết sức tạo hình… và truyện sẽ kết thúc bằng một cảnh rừng xà nu, như một vĩ thanh cứ xa mờ dần và bất tận.
 
Viết Rừng xà nu, nhà văn Nguyễn Trung Thành (tức Nguyên Ngọc) mở đầu và kết thúc tác phẩm như sau:
- Mở bài: Làng ở trong tầm đại bác của đồn giặc. Chúng nó bắn đã thành lệ, mỗi ngày hai lần, hoặc buổi sáng sớm và xế chiều, hoặc đứng bóng và sẩm tối, hoặc nửa đêm và trở gà gáy. Hầu hết đạn đại bác đều rơi vào ngọn đồi xà nu, cạnh con nước lớn. Cả rừng xà nu hàng vạn cây không có cây nào không bị thương. Có những cây bị chặt đứt ngang nửa thân mình, đổ ào ào như một trận bão.Ở chỗ vết thương, nhựa ứa ra, tràn trề, thơm ngào ngạt, long lanh nắng hè gay gắt, rồi dần dần bầm lại, đen và đặc quyện lại thành từng cục máu lớn.
 
- Thân bàiTrong rừng ít có loại cây sinh sôi nảy nở khỏe như vậy. Cạnh một cây xà nu mới ngã gục, đã có bốn năm cây con mọc lên, ngọn xanh rờn, hình nhọn mũi tên lao thẳng lên bầu trời. Cũng có ít loại cây ham ánh sáng mặt trời đến thế. Nó phóng lên rất nhanh để tiếp lấy ánh nắng, thứ ánh nắng trong rừng rọi từ trên cao xuống từng luồng lớn thẳng tắp, lóng lánh vô số hạt bụi vàng từ nhựa cây bay ra thơm mỡ màng. Có những cây con vừa lớn ngang tầm ngực người, lại bị đại bác chặt đứt làm đôi. Ở những cây đó, nhựa còn trong, chất dầu còn loãng, vết thương không lành được, cứ loét mãi ra, năm mười hôm thì cây chết. Nhưng cũng có những cây vượt lên được cao hơn đầu người, cành lá sum sê như những con chim đã đủ lông mao, lông vũ. Đạn đại bác không giết nổi chúng, những vết thương của chúng chóng lành như trên một thân thể cường tráng. Chúng vượt lên rất nhanh, thay thế những cây đã ngã…Cứ thế hai ba năm nay rừng xà nu ưỡn tấm ngực lớn của mình ra che chở cho làng…
Đứng trên đồi xà nu ấy trông ra xa, đến hết tầm mắt cũng không thấy gì khác ngoài những đồi xà nu nối tiếp tới chân trời.
 
- Kết thúc: Tnú lại ra đi. Cụ Mết và Dít đưa anh ra đến rừng xà nu gần con nước lớn. Trận đại bác đêm qua đã đánh ngã bốn năm cây xà nu to. Nhựa ứa ra ở những vết thương đang đọng lại, lóng lánh nắng hè. Quanh đó vô số những cây con đang mọc lên. Có những cây mới nhú khỏi mặt đất, nhọn hoắt như những mũi lê.
Ba người đứng ở đấy nhìn ra xa. Đến hút tầm mắt cũng không thấy gì ngoài những rừng xà nu nối tiếp chạy đến chân trời.
 
(Rừng xà nu – Nguyễn Trung Thành)
 
a) Theo anh (chị), các đoạn trên có thể hiện đúng như dự kiến của tác giả không? Nội dung và giọng điệu của đoạn văn mở đầu và kết thúc có nét gì giống nhau, khác nhau?
b) Anh (chị) học được điều gì ở cách viết đoạn văn của Nguyên Ngọc?
 
2.Trong một câu chuyện về hậu thân của chị Dậu ở lập dàn ý bài văn tự sự, một bạn học sinh đã viết như sau:
 
  Vậy là chị được cử về Đông Xá, về cái làng quê bé nhỏ, nghèo khổ của chị. Vừa đặt chân tới con đê cao, con đê chắn ngang mấy nếp nhà lụp xụp, chị Dậu chợt nhìn thấy ở chân trời phía đông một vừng hồng ửng lên […]. Một đoàn người áo quần rách rưới, nhưng nét mặt ai cũng hồ hởi, từ trong làng đi ra. Người cầm gậy, kể cầm dao, cầm kiếm, vác cờ đỏ ào tới vây lấy chị. Người nông dân khốn khổ từng chạy trốn trong cái đêm đen ấy bỗng ứa nước mắt […].  Cố nén xúc động, chị Dậu dang rộng đôi cánh tay như muốn ôm lấy mọi người, rồi nghẹn ngào nói :
- Cách mạng thành công rồi ! Cả dân tộc đã đứng dậy ! Bà con ơi, chúng ta hãy lên huyện bắt bọn quan lại, phá kho thóc chia cho dân nghèo.
 
a) Có thể coi đây là đoạn văn trong văn bản tự sự được không? Theo anh/chị, đoạn văn đó thuộc phần nào của “truyện ngắn” mà bạn học sinh định viết?
b) Viết đoạn văn này, bạn học sinh đã thành công ở nội dung nào, nội dung nào bạn còn phân vân và để trống? Anh (chị) hãy viết tiếp vào những chỗ trống đó để cùng bạn hoàn chỉnh đoạn văn định viết.


3. Qua kinh nghiệm của nhà văn Nguyên Ngọc và thu hoạch từ hai bài tập trên, anh (chị )hãy nêu cách viết đoạn văn trong bài văn tự sự.
 
LUYỆN TẬP 
 
 1. Một đoạn trích được chép lại như sau:
  Tôi dùng xẻng nhỏ đào đất dưới quả bom. Đất rắn. Những hòn sỏi theo tay tôi bay ra hai bên. Thỉnh thoảng lưỡi xẻng chạm vào quả bom. Một tiếng động sắc đến gai người cứa vào da thịt tôi. Tôi rùng và bỗng thấy tại sao mình làm quá chậm. Nhanh lên một tí! Vỏ quả bom nóng. Một dấu hiệu chẳng lành. Hoặc là nóng từ bên trong quả bom. Hoặt là mặt trời nung nóng.
  Chị Thao thổi còi. Như thế là đã hai mươi phút qua. Tôi cẩn thận bỏ gói thuốc mìn xuống cái lỗ đã đào, châm ngòi. Dây mìn dài, cong, mềm. Cô khỏa đất rồi chạy lại chỗ ẩn nấp của mình.
  Hồi còi thứ hai của chị Thao. Tôi nép người vào bức tường đất, nhìn đồng hồ. Không có gió. Tim Phương Định cũng đập không rõ. Dường như vật duy nhất vẫn bình tĩnh, phớt lờ mọi biến động chung là chiếc kim đồng hồ.
 
a) Anh (chị) cho biết đoạn trích trên kể sự việc gì, ở phần nào của văn bản tự sự nào?
b) Đoạn trích chép ở đây có một số sai sót về ngôi kể, hãy chỉ rõ những lỗi sai đó rồi chữa lại cho hoàn chỉnh.
c) Từ sự phát hiện và chỉnh sửa đoạn trích trên, anh/chị có thêm kinh nghiệm gì khi viết đoạn văn trong bài tự sự?
 
2. Viết một đoạn văn diễn tả cử chỉ và tâm trạng của cô gái trong 9 câu đầu đoạn trích Tiễn dặn người yêu.
Lời giải:
I- Đoạn văn trong văn bản tự sự
 
1.
Đoạn văn là bộ phận của văn bản. Trong văn bản tự sự, mỗi đoạn văn thường có câu nêu ý khái quát gọi là câu chủ đề. Các câu khác diễn đạt những ý cụ thể nhằm thuyết minh, miêu tả, giải thích, mở rộng… triển khai làm rõ ý khái quát.
 
2. Mỗi văn bản tự sự thường gồm nhiều đoạn văn với những nhiệm vụ khác nhau:
Đoạn phần mở bài: giới thiệu câu chuyện
Đoạn ở phần thân bài: kể diễn biến sự việc chi tiết.
Đoạn kết bài: tạo ấn tượng mạnh mẽ tới suy nghĩ, cảm xúc người đọc.
 
3. Nội dung mỗi đoạn văn tuy khác nhau (cách tả người, kể sự việc) nhưng đều có chung nhiệm vụ là thể hiện chủ đề và ý nghĩa văn bản.
 
II - Cách viết đoạn văn trong văn bản tự sự
 
Câu 1: Trong bài Lập dàn ý  bài văn tự sự, chúng ta được nghe nhà văn Nguyên Ngọc kể: cái truyện này sẽ bắt đầu bằng một khu rừng xà nu – mà tôi ra sức tả một cách hết sức tạo hình… và truyện sẽ kết thúc bằng một cảnh rừng xà nu, như một vĩ thanh cứ xa mờ dần và bất tận.
 
Viết Rừng xà nu, nhà văn Nguyễn Trung Thành (tức Nguyên Ngọc) mở đầu và kết thúc tác phẩm như sau:
 
- Mở bài: Làng ở trong tầm đại bác của đồn giặc. Chúng nó bắn đã thành lệ, mỗi ngày hai lần, hoặc buổi sáng sớm và xế chiều, hoặc đứng bóng và sẩm tối, hoặc nửa đêm và trở gà gáy. Hầu hết đạn đại bác đều rơi vào ngọn đồi xà nu, cạnh con nước lớn. Cả rừng xà nu hàng vạn cây không có cây nào không bị thương. Có những cây bị chặt đứt ngang nửa thân mình, đổ ào ào như một trận bão.Ở chỗ vết thương, nhựa ứa ra, tràn trề, thơm ngào ngạt, long lanh nắng hè gay gắt, rồi dần dần bầm lại, đen và đặc quyện lại thành từng cục máu lớn.
- Thân bài: Trong rừng ít có loại cây sinh sôi nảy nở khỏe như vậy. Cạnh một cây xà nu mới ngã gục, đã có bốn năm cây con mọc lên, ngọn xanh rờn, hình nhọn mũi tên lao thẳng lên bầu trời. Cũng có ít loại cây ham ánh sáng mặt trời đến thế. Nó phóng lên rất nhanh để tiếp lấy ánh nắng, thứ ánh nắng trong rừng rọi từ trên cao xuống từng luồng lớn thẳng tắp, lóng lánh vô số hạt bụi vàng từ nhựa cây bay ra thơm mỡ màng. Có những cây con vừa lớn ngang tầm ngực người, lại bị đại bác chặt đứt làm đôi. Ở những cây đó, nhựa còn trong, chất dầu còn loãng, vết thương không lành được, cứ loét mãi ra, năm mười hôm thì cây chết. Nhưng cũng có những cây vượt lên được cao hơn đầu người, cành lá sum sê như những con chim đã đủ lông mao, lông vũ. Đạn đại bác không giết nổi chúng, những vết thương của chúng chóng lành như trên một thân thể cường tráng. Chúng vượt lên rất nhanh, thay thế những cây đã ngã…Cứ thế hai ba năm nay rừng xà nu ưỡn tấm ngực lớn của mình ra che chở cho làng…
Đứng trên đồi xà nu ấy trông ra xa, đến hết tầm mắt cũng không thấy gì khác ngoài những đồi xà nu nối tiếp tới chân trời.
- Kết thúc: Tnú lại ra đi. Cụ Mết và Dít đưa anh ra đến rừng xà nu gần con nước lớn. Trận đại bác đêm qua đã đánh ngã bốn năm cây xà nu to. Nhựa ứa ra ở những vết thương đang đọng lại, lóng lánh nắng hè. Quanh đó vô số những cây con đang mọc lên. Có những cây mới nhú khỏi mặt đất, nhọn hoắt như những mũi lê.
Ba người đứng ở đấy nhìn ra xa. Đến hút tầm mắt cũng không thấy gì ngoài những rừng xà nu nối tiếp chạy đến chân trời.
 
(Rừng xà nu – Nguyễn Trung Thành)
a) Theo anh (chị), các đoạn trên có thể hiện đúng như dự kiến của tác giả không? Nội dung và giọng điệu của đoạn văn mở đầu và kết thúc có nét gì giống nhau, khác nhau?
b) Anh (chị) học được điều gì ở cách viết đoạn văn của Nguyên Ngọc?
 
Trả lời:
a) - Các đoạn văn đã thể hiện đúng và rõ ràng những dự kiến của tác giả trước khi viết truyện.
- So sánh nội dung và giọng điệu của đoạn văn mở đầu và kết thúc:
+ Giống nhau: Cả đoạn mở đầu và kết thúc đều miêu tả cảnh rừng xà nu. Nó tạo thành một kết cấu vòng tròn - mở rộng vấn đề. Kết cấu này giúp cho tác phẩm vừa đạt được sự chặt chẽ về bố cục, vừa tập trung làm nổi bật hình ảnh biểu tượng và chủ đề của tác phẩm. Từ đó, người đọc cũng có được những suy nghĩ để liên tưởng để mở rộng hơn về nội dung tác phẩm.
+ Khác nhau:
Ở phần mở đầu: miêu tả khung cảnh rừng xà nu kĩ hơn, dài hơn về vẻ đẹp và sức sống dẻo dai của rừng xà nu trước những làn bom đạn của quân thù, nhằm gây ấn tượng cho người đọc về một khung cảnh thiên nhiên hùng vĩ, tươi đẹp, đậm chất đại ngàn Tây Nguyên.
Ở phần kết thúc:
 
Đoạn kết miêu tả cô đọng, sâu sắc sức vươn lên của các lớp xà nu con và sức mạnh tổng thể của rừng xà nu. Đoạc còn có sự kết hợp hình ảnh con người xuất hiện cùng với rừng xà nu, tạo cho người đọc cảm giác về sự bất diệt của rừng cây và sức sống mãnh liệt của con người.
b)Kinh nghiệm từ cách viết đoạn văn của Nguyên Ngọc:
- Cần có ý tưởng, dự kiến từ trước cho nội dung và nghệ thuật của đoạn văn trước khi viết bài chi tiết.
- Khi viết mỗi đoạn văn, cần xác định mục đích chính của đoạn để tập trung biểu hiện chủ đề. Nếu có các hình ảnh giống nhau, các đoạn văn vẫn phải có những đặc điểm khác nhau cả về nội dung và nghệ thuật để không bị trùng lặp, tạo được sự nhấn mạnh sâu sắc cho nội dung, hình ảnh ấy.
 
Câu 2:
  Trong một câu chuyện về hậu thân của chị Dậu ở lập dàn ý bài văn tự sự, một bạn học sinh đã viết như sau:
  Vậy là chị được cử về Đông Xá, về cái làng quê bé nhỏ, nghèo khổ của chị. Vừa đặt chân tới con đê cao, con đê chắn ngang mấy nếp nhà lụp xụp, chị Dậu chợt nhìn thấy ở chân trời phía đông một vừng hồng ửng lên […]. Một đoàn người áo quần rách rưới, nhưng nét mặt ai cũng hồ hởi, từ trong làng đi ra. Người cầm gậy, kể cầm dao, cầm kiếm, vác cờ đỏ ào tới vây lấy chị. Người nông dân khốn khổ từng chạy trốn trong cái đêm đen ấy bỗng ứa nước mắt […].  Cố nén xúc động, chị Dậu dang rộng đôi cánh tay như muốn ôm lấy mọi người, rồi nghẹn ngào nói :
- Cách mạng thành công rồi ! Cả dân tộc đã đứng dậy ! Bà con ơi, chúng ta hãy lên huyện bắt bọn quan lại, phá kho thóc chia cho dân nghèo.
 
a) Có thể coi đây là đoạn văn trong văn bản tự sự được không? Theo anh/chị, đoạn văn đó thuộc phần nào của “truyện ngắn” mà bạn học sinh định viết?
b) Viết đoạn văn này, bạn học sinh đã thành công ở nội dung nào, nội dung nào bạn còn phân vân và để trống? Anh (chị) hãy viết tiếp vào những chỗ trống đó để cùng bạn hoàn chỉnh đoạn văn định viết.
 
Trả lời:
a) Có thể coi đây là đoạn văn trong văn bản tự sự
Lí do: Đoạn văn này kể về sự việc quan trọng là "Chị Dậu về làng lãnh đạo cuộc nổi dậy khi cuộc Cách mạng tháng Tám năm 1945 nổ ra". Sự việc này nằm trong phần thân bài trong "truyện ngắn" mà bạn học sinh định viết, rất phù hợp với chủ đề và cốt truyện mà bạn học sinh đã nêu ra và lập dàn ý.
b) Viết đoạn văn này, bạn học sinh đã thành công ở việc đưa ra được nội dung truyện khá hấp dẫn, các chi tiết được kể thú vị, phù hợp.
Tuy nhiên, đoạn văn còn chưa rành mạch, rõ ý. Cách miêu tả cảnh vật và tâm trạng con người trong đoạn văn còn vụng về.
Có thể sửa lại đoạn văn ở một số chi tiết như sau:
+ Vừa đặt chân tới con đê cao, con đê chắn ngang mấy nếp nhà lụp xụp, ở phía đông mặt trời đang dần thắp sáng bầu trời bằng những ánh hồng rực rỡ, chị Dậu bỗng nhìn thấy một đoàn người áo quần rách rưới, nhưng nét mặt ai cũng hồ hởi, từ trong làng đi ra...
+ Người đàn bà khốn khổ từng chạy trốn trong cái đêm đen ấy bỗng vui mừng đến rơi nước mắt. Rồi cố nén xúc động, chị Dậu dang rộng đôi cánh tay...
 
Câu 3:
Qua kinh nghiệm của nhà văn Nguyên Ngọc và thu hoạch từ hai bài tập trên, anh (chị )hãy nêu cách viết đoạn văn trong bài văn tự sự.
 
Trả lời:
Để viết đoạn văn tự sự, chúng ta cần hình dung, tưởng tượng xem các sự việc sẽ xảy ra như thế nào. Sau đó,  ta lần lượt kể lại diễn biến của các sự việc ấy Khi kể cần chú ý sử dụng các phương tiện liên kết câu để đoạn văn được mạch lạc, chặt chẽ, logic về nội dung.
 
GHI NHỚ
+ Có nhiều loại đoạn văn trong văn bản tự sự. Đoạn (các đoạn ) mở bài giới thiệu câu chuyện; các đoạn thân bài kể lại diễn biến của các sự việc; đoạn (các đoạn) kết bài kết thúc câu chuyện, tạo ấn tượng đối với suy nghĩ, cảm xúc của người đọc, người nghe.
+ Để viết đoạn văn tự sự, cần hình dung sự việc xảy ra như thế nào rồi lần lượt kể lại diễn biến của nó, chú ý sử dụng các phương tiện liên kết câu để đoạn văn được mạch lạc, chặt chẽ.
 
LUYỆN TẬP
 
Câu 1: Một đoạn trích được chép lại như sau:
 
  Tôi dùng xẻng nhỏ đào đất dưới quả bom. Đất rắn. Những hòn sỏi theo tay tôi bay ra hai bên. Thỉnh thoảng lưỡi xẻng chạm vào quả bom. Một tiếng động sắc đến gai người cứa vào da thịt tôi. Tôi rùng và bỗng thấy tại sao mình làm quá chậm. Nhanh lên một tí! Vỏ quả bom nóng. Một dấu hiệu chẳng lành. Hoặc là nóng từ bên trong quả bom. Hoặt là mặt trời nung nóng.
  Chị Thao thổi còi. Như thế là đã hai mươi phút qua. Tôi cẩn thận bỏ gói thuốc mìn xuống cái lỗ đã đào, châm ngòi. Dây mìn dài, cong, mềm. Cô khỏa đất rồi chạy lại chỗ ẩn nấp của mình.
  Hồi còi thứ hai của chị Thao. Tôi nép người vào bức tường đất, nhìn đồng hồ. Không có gió. Tim Phương Định cũng đập không rõ. Dường như vật duy nhất vẫn bình tĩnh, phớt lờ mọi biến động chung là chiếc kim đồng hồ.
 
a) Anh (chị) cho biết đoạn trích trên kể sự việc gì, ở phần nào của văn bản tự sự nào?
b) Đoạn trích chép ở đây có một số sai sót về ngôi kể, hãy chỉ rõ những lỗi sai đó rồi chữa lại cho hoàn chỉnh.
c) Từ sự phát hiện và chỉnh sửa đoạn trích trên, anh/chị có thêm kinh nghiệm gì khi viết đoạn văn trong bài tự sự?
 
Trả lời:
a) Đoạn trích kể lại sự việc của cô thanh niên xung phong thời chống Mỹ -  Phương Định  làm nhiệm cụ phá bom. Đây là đoạn văn nằm ở phần thân bài của văn bản tự sự “Những ngôi sao xa xôi” (truyện ngắn của Lê Minh Khuê).
b) Trong đoạn trích đã có sự nhầm lẫn về ngôi kể. Trong truyện ngắn nhà văn dùng ngôi thứ nhất (nhân vật Phương Định xưng tôi, kể chuyện về bản thân mình và tổ thanh niên xung phong). Tuy nhiên, ở một số câu trong đoạn trích lại dùng ngôi kể thứ 3:
+ Cô khỏa đất rồi chạy lại chỗ ẩn nấp của mình.
+ Tim Phương Định cũng đập không rõ
Đoạn trích được bạn HS chép lại đã thay đại từ xưng tôi bằng đại từ cô, hoặc danh từ riêng Phương Định ở một số câu (Tim Phương Định cũng đập không rõ). Vì thế, muốn có được sự nhất quán trong ngôi kể, chúng ta cần sửa lại đại từ quan hệ sang ngôi thứ nhất (nhân vật xưng tôi).
c) Từ những điều trên, có thể rút ra bài học: Trong văn bản tự sự, người viết cần nhất quán về ngôi kể. Cần có được ngôi kể thống nhất từ đầu tới cuối của văn bản. Điều này sẽ giúp đảm bảo tính chặt chẽ, logic và thuyết phục cho đoạn văn.
 
Câu 2: Viết một đoạn văn diễn tả cử chỉ và tâm trạng của cô gái trong 9 câu đầu đoạn trích Tiễn dặn người yêu.
 
Trả lời:
Gợi ý nội dung chính cho bài viết:
+ Hoàn cảnh cô gái: cô gái bị ép duyên, phải xa quê hương và người yêu để lấy chồng ở xứ khác.
+ Cử chỉ: cất bước theo chồng, vừa đi vừa ngoảnh lại, vừa đi vừa ngoái trông, khi tới rừng ớt ngắt lá ớt ngồi chờ, khi tới rừng cà ngắt lá cà ngồi đợi,…
+ Tâm trạng: lòng càng đau càng nhớ, chờ, đợi,…
Khi viết, học sinh cần chú ý việc miêu tả kết hợp cả cử chỉ và tâm trạng của nhân vật để diễn tả được sự lưu luyến, tâm trạng buồn khổ, vương vấn nhớ thương của người con gái phải lìa xa người yêu về nhà chồng.
Đoạn văn gợi ý:
Người tôi yêu vì hoàn cảnh ép buộc đã phải cất bước theo chồng. Quẩy gánh bước qua cánh đồng rộng, nàng vừa đi vừa ngoảnh lại, ánh mắt như hy vọng, chờ trông một điều gì xa xăm. Cánh đồng lúa xanh tươi mà mênh mông như mang cả nỗi buồn thương, luyến nhớ đến vô cùng của chúng tôi. Những yêu thương và nỗi lòng chẳng muốn cách rời của tôi, chắc rằng nàng hiểu thấu hơn ai hết. Chân nàng về nhà chồng, chân đi mà lòng không muốn rời, đau xót, nhớ thương vô cùng. Tới rừng ớt, nàng ngắt lá ớt lấy cớ ngồi chờ; tới rừng cà ngắt lá cà ngồi đợi; tới rừng lá ngón lại ngóng trông... Nàng ngập ngừng bước chân, vừa đi vừa chờ đợi như muốn níu kéo chút thời gian cuối cùng trước khi rời mảnh đất thân thương, trước khi chúng tôi phải xa cách. Liệu ai có thể thấu được tâm trạng rối bời, những nỗi vương vấn, lưu luyến đang dằn vặt trong tâm hồn người con gái bé nhỏ của tôi.
+ Mở rộng xem đầy đủ