Soạn bài Bình giảng Người lái đò sông đà - Nguyễn Tuân - Ngữ văn 12 tập 1

Cảm nhận về hình tượng Người Lái Đò Sông Đà qua tác phẩm cùng tên của nhà văn Nguyễn Tuân. 

Lời giải:
     Với Nguyễn Tuân, sự chuyển mình đáng nhớ từ quan niệm “nghệ thuật vị nghệ thuật” trở thành “nghệ thuật vị nhân sinh” sau cách mạng tháng Tám, không trơn tru, thẳng lối như một số người cầm bút khác, mà trở nên gập ghềnh, trăm ngả, trở thành một “hiện tượng phức hợp” trong quá trình đấu tranh tìm tiếng nói thống nhất, chạm đến vẻ đẹp. Tất nhiên, những ngổn ngang, bề bộn, trăn trở về cuộc đời mới, về tiếng nói mới, về khát vọng lớn lao, sôi sục trong Nguyễn Tuân đã dồn phần nhiều vào những trang tùy bút – chấp nhận dung lượng lớn về thông tin và cảm nghĩ tác giả như : Ngọn đèn dầu lạc (1939) , Vang bóng một thời (1940), Chiếc lư đồng mắt cua (1941),Tàn đèn dầu lạc (1941), Một chuyến đi (1938), cho đến Nguyễn (1945), Chùa Đàn (1946), Đường vui (1949), Tình chiến dịch (1950), Thắng càn (1953). Nhưng rồi con đường đổi thay ấy có gian truân nhường nào, Nguyễn Tuân sau Cách mạng tháng Tám, “ông đã hòa mình vào cuộc sống nhân dân", rũ bỏ cái “tôi”, vươn lên thành người chiến sĩ trên mặt trận văn hóa tư tưởng”. “Tùy bút kháng chiến” đã có cái nhìn ấm áp, tin yêu với cuộc đời mới, sự gắn bó  giữa nhà văn và lực lượng đông đảo quần chúng tham gia kháng chiến. Một trong những tác phẩm tiêu biểu chính là Người lái đò sông Đà (1960). Ngoài vẻ đẹp mĩ mãn, hùng dũng oai nghiêm mà nên thơ trữ tình cùng sự giàu có về tài nguyên thiên nhiên của con sông Đà thuộc miền Tây Bắc của tổ quốc, Nguyễn Tuân còn cho thấy vẻ cường tráng, sắc vóc ngang vòm trời cùng vẻ đẹp tài hoa của những con người ở miền đất này. Người lái đò hiện lên với “chất vàng mười” của tâm hồn, cùng một cuộc dạo chơi ngoạn mục với thiên nhiên. 
      Trước hết, hình ảnh người lái đò hiện lên với vẻ hùng dũng oai nghiêm như một vị tướng lĩnh qua lời miêu tả hết mực sinh động về con sông Đà - một vật thể trung gian. Nghệ thuật đòn bẩy được sử dụng hiệu quả : Miêu tả, thực hiện một cuộc du ngoạn sông Đà, mượn con mắt và cảm nhận của nhà văn để thấy vẻ đẹp, sắc vóc con người nơi đây. 
      Ngay từ khi dẫn dắt người đọc vào mạch văn của mình, Nguyễn Tuân đã bày biện một cảnh vật tráng lệ, nguy nga với “thác đá, bờ sông”, tưởng khiến người ta lọt vào một trận đồ mê cung, đã dựng thành vách. Toàn bộ khoảng trời như bị giam hãm bởi những thành quách của đá, với tầm nhìn hạn hẹp của mắt người , hai chiếc “khung”: Vách đá, và thị giác đã nhốt mặt trời và những ánh vàng của nó trong một khoảng không gian chật chội.Từ cảm nhận về thị giác, Nguyễn Tuân lại dẫn dắt về một thứ cảm nhận về tri giác khác: “Có quãng con nai con hổ đã có lần vọt từ bờ này sang bờ kia...đang mùa hè mà cũng thấy lạnh”. Một cú giật mình, khi những ánh nắng mặt trời bất chợt mất đi bởi những cái lướt qua ,bóng dáng của một con mãnh thú nào đó. Những lớp cảnh trong tranh Nguyễn Tuân kì thực vừa đa lớp vừa thú vị, khiến người đọc vừa như đang được trải nghiệm thực tế chuyến đi qua quãng vách đó cùng ông. Từ sự cảm nhận về thị giác,cho đến xúc giác, cùng thưởng ngoạn vẻ hùng vĩ, uy nghi của thiên nhiên trong quãng sông đó, người ta có thể cảm nhận được sự dũng mãnh của những người lái đò. Sự chuyển động của con thuyền khi họ lướt qua, hòa cùng sự chuyển động của gió ở quãng sâu hun hút, con thuyền lướt trên mặt nước, đang dần tách khỏi không gian hẹp và mê cung thành quách, sự đánh đố của những tảng đá và con nước như đang dần bị đẩy lại cùng những tiếng gió hun hút như muốn thách thức họ thêm lần nữa. Có thể thấy, miêu tả những tính chất ,đặc điểm cốt lõi của một vách đá thuộc quãng sông nào đó, Nguyễn Tuân đã cho người đọc thấy những tay lái đò gan dạ, một ma trận, mê cung của thiên nhiên đã được họ giải đáp chóng vánh.
       Ngỡ tưởng sau những màn thách thức hiểm nguy là khi con sông trở nên mềm dịu, hiền hòa, nhưng cuộc cân sức vẫn không dừng lại. Từ quãng mặt ghềnh Hát Loóng, nước xô đá, đá xô nước, sóng xô gió ,cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm, cho đến những cái “hút nước giống như cái giếng bê tông thả xuống sông”. Bằng những phép liên tưởng kì thú, cùng bút lực dồi dào, lớp lớp hình ảnh được bày biện trước mắt người đọc như một bàn tiệc thịnh soạn, đưa họ đi từ bất ngờ này đến bất ngờ khác. Và cho dù là bất cứ trận đồ nào bày ra, cũng là một cửa ải thách thức những tay lái gan dạ nhất. Bên cạnh đó, bằng việc sử dụng liên tiếp những từ ngữ miêu tả có tính hiệu quả, Nguyễn Tuân thực đã phác họa chi tiết các trận đồ, đem đến cảm giác “lấy gân ngồi giữ chặt ghế như ghì lấy mép một chiếc lá rừng” cho người đọc. Đồng thời, một lần nữa, thủ pháp đòn bảy lại được sử dụng hiệu quả, khi tác giả mô tả tính chất nguy hiểm của con sông, “những giếng sâu nước ặc ặc lên như vừa rót dầu sôi vào”. Có những thuyền bị hút đi, trồng cây chuối  ngược, rồi dìm ngầm, tan xác ở khuỷnh sông dưới, cho đến sự giả tưởng kì thú về một anh bạn quay film thực hiện thủ pháp contre-plongee’ (máy lia ngược) lên một cái mặt giếng đều dễ khiến người đọc nghĩ đến sự gan dạ, tài tình, những con người với những trải nghiệm thực tế và kinh nghiệm, cùng những gân guốc nổi lên ở cánh tay bao năm đã gắn bó với công việc chèo lái này. Ngay cả khi con thuyền đã lao vút đi sau tay lái của những người dám “thách thức tử thần” , ta vẫn có thể nghe thấy những tiếng “ặc ặc” của dầu sôi, cùng dư âm của những “miếng thủy tinh khối đúc dày, khối pha lê xanh” đã vỡ òa, đổ ập vào con thuyền nhỏ, hòng nhấn chìm nó và muốn xé nát tất thảy vật thể đang đi ngược lại quy trình vận hành của con sông. Ta tự hỏi đó là trận chiến của những tay lái chèo, hay chính là trận chiến của người cầm bút, trong cuộc giao vận của thời đại, trước dòng chảy biến thiên khôn lường của lịch sử, đòi hỏi những quy luật đổi thay thông thường. Từ bức tranh, vẫn là những giằng xé trong chính những dòng suy nghĩ của tác giả. Nhưng mối thống nhất về bản năng con người vẫn còn đó, những con người tây bắc không chỉ gan dạ trong thời bình, xây dựng cuộc sống mới, họ đã từng là những vị anh hùng dân tộc trong cuộc kháng chiến trường kì xương máu của cả dân tộc. Và giờ đây, họ đương đầu với một cuộc chiến “khốc liệt" khác, cuộc chiến với thiên nhiên, với hiểm trở non núi, cuộc chiến để ổn định cuộc sống, sau những năm tháng giáp mặt quân thù. 
Bên cạnh đó, Nguyễn Tuân đã đúc tạc nên bức tượng về ý chí kiên cường, gan dạ của những tay lái chèo bằng một cuộc giao tranh trực tiếp mà ông từng gọi “cuộc chiến đấu gian lao của người lái đò trên chiến trường sông Đà” nhằm ghi tạc dấu ấn vĩnh viễn về bản lĩnh, năng lượng cùng vẻ đẹp tài hoa của khối óc và tâm hồn những con người đáng quý Tây Bắc .
       Vòng vây thạch trận, là bình diện đáng lưu ý trong quá trình đúc tạc vẻ đẹp hùng dũng của những người lái đò. Họ vượt qua những vòng vây đầy thách thức hiểm nguy ấy, lần một, lần hai, lần ba, đầy chóng vánh, người ta như đắm chìm vào không gian được dàn dựng, bày biện cùng những miền liên tưởng sáng tạo thực tế bằng những con chữ. Nguyễn Tuân đã có dịp được tung hoành, hóa con chữ thành mạn thuyền, đè sóng, ngược gió, vượt qua những dàn trận thạch đá ngang dọc, cho đến buộc những âm thanh, những xì xào gợn lại của “kẻ thua cuộc” sông Đà trong dư âm man mác, quanh quẩn bức tượng đài hùng vĩ về những người lái đò. 
      Trước hết, tác giả mở đầu trận chiến kinh hoàng bằng những âm thanh gợn lại, tiếng nước réo gần mãi, to mãi lên. Từng miêu tả đơn chiếc bình diện đầy hung tàn của con sông Đà trong cảnh đá bờ sông ,mặt ghềnh hát L- oóng và những cái hút nước như vừa rót dầu sôi vào, Nguyễn Tuân cũng chú trọng đến âm thanh: những quãng âm lớn, ở một không gian có chiều sâu và rộng, đã tạc được ấn tượng đến đỉnh điểm khi người ta hòa mình vào trận chiến có ba hồi này. Thủ pháp nhân hóa được sử dụng sáng tạo cho những kẻ “chào mừng" ông lái đò vào thạch trận : từ trạng thái oán trách, rồi lại văng vẳng như van xin, sau lại khiêu khích, lớn dần lên : gằn, chế nhạo . Những cường độ âm thanh khi to khi nhỏ, thể hiện những sắc thái khác nhau của con nước trong cuộc giao tranh, đồng thời, cho thấy vị trí di chuyển khi người cầm bút nghe được những âm thanh đó.  Con thuyền như chững lại trong khoảnh khắc khi tất thảy những thanh âm được cộng hưởng lại trở thành “một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu, rừng tre, rừng nứa....” Mức độ âm thanh trong bức tranh phần nào đã cho thấy tính chất của nó, Nguyễn Tuân như hé lộ về một kẻ “tay to mặt lớn”, khó nhằn để chinh phục, và bất lợi đang nghiêng về những chủ thể nhỏ hơn trong bức tranh: Người lái đò và con thuyền . 
      Trùng vi thạch trận thứ nhất bày biện ra, đám tảng đám hòn chia làm ba hàng chặn ngang trên sông đòi ăn chết cái thuyền. Tất nhiên, con thuyền đã chấp nhận phải đương đầu với sức mạnh của những kẻ đang có ưu thế . Ở đây, Nguyễn Tuân không trực tiếp miêu tả ông lái đò ứng chí ra sao sau mỗi lần miêu tả những tảng đá, mà chú trọng dàn dựng trùng vi thạch trận. Bằng kiến thức về chiến lược bóng đá, đầy thực tế: Từ những vòng của hàng tiền vệ cho đến cái “bẫy độc địa” : dụ thuyền vào hang cọp, cho đến chiến lược phản công cùng trách nhiệm nặng nề của hàng phòng thủ thứ ba, tiêu diệt tất cả ngay chân thác, chúng còn có “cổ động viên” hết mực tích cực trong việc làm nung nấu tinh thần đối phương. Bản thân chúng lại bày tỏ dáng vẻ của những tay hợm hĩnh đầy ngạo mạn, chấn áp ý chí đối thủ, nhưng không, ông lái đò lúc này trở thành một tay lái bản lĩnh và tài hoa, lách lần lượt qua những phòng tuyến chắc chắn không hề nao núng. Nguyễn Tuân trở thành một họa sĩ, ngay trên con thuyền, trong trận chiến nước sôi lửa bỏng đã kịp khắc họa lại chân thực trận chiến ngay trước mắt bằng lớp lớp hình ảnh. Sóng đang chiếm ưu thế khi vào sát nách, đá trái, thúc gối vào bụng, hông thuyền, đội cả thuyền lên, nước bám lấy như đô vật túm ông lái đò, bóp chặt lấy hạ bộ ông. Nhân vật như bị dồn vào đường cùng, nhưng rồi chính nhân vật đó đã lấy đà vươn lên, phô diễn những vẻ đẹp tận cùng nhất của con người trong tình huống hiểm nguy : Tiếng chỉ huy cầm lái vang lên, giữa thuyền sáu bơi chèo. Âm thanh kết thúc trận giao chiến đầu tiên ấy như một thủ pháp tương ứng nhưng không còn là tiếng đắc chí của lũ đá, lũ nước dữ mà là âm thanh xé toạc những tạp âm còn lại : Âm thanh tỉnh táo, ngắn gọn của người cầm lái.
      Nhưng chưa dừng lại ở đó, vẻ đẹp của khối óc và sự điêu luyện hùng dũng ngang nhiên trở nên đỉnh điểm, chủ thể nhỏ hơn đã trở thành nét chấm phá ngoạn mục trong cả bức tranh, khi ông lái đò thách thức ý chí với cửa tử - cửa sinh ở vòng vây thứ hai và thứ ba. Cả hai cửa đều như trêu ngươi khi bố chí cửa sinh nằm lệch với quán tính của thuyền và dòng nước tự nhiên nhưng đều phải giã đám khi con nước uy nghi nhất cũng đã bị chinh phục, như một màn cưỡi hổ và màn trổ tài điêu luyện xé toạc trùng vi của lũ đá. Nhất là ở vòng thứ ba, khi cửa vào ít hơn, chỉ còn ba cửa, trái phải đều chết cả, không phải sử dụng nhiều thủ pháp và sự miêu tả bằng những con chữ ngoạn mục, Nguyễn Tuân đã ngầm cho người đọc thấy vẻ đẹp tài trí và sức mạnh để rồi kết thúc chỉ còn là dư âm để lại bởi tiếng vút vút của mũi tên tre xuyên nhanh qua dòng nước. 
      Nhưng sau tất cả, đọng lại là vẻ đẹp hiền hòa, bình dị của những con người Tây Bắc khi họ về trạng thái nghỉ ngơi. Vị anh hùng lao động nay là những con người quây quần bên gia đình, những vẻ đẹp giản dị, mộc mạc 
      Họ như những vị anh hùng  đúc kết những phẩm chất của những con người thuộc cộng đồng xã hội lúc bấy giờ. Họ không nhắc về chiến công của mình, vì dường như những con người  đó ngày nào cũng phải đối mặt với thách thức, hiểm nguy . Cuộc sống đầy vẻ lãng tử, nhưng biết lao động để nhận về thành quả xứng đáng. Sự dân dã, gần gụi cùng những thanh âm ấm áp thuộc về những con người của thời đại mới, xã hội mới đang vươn lên, trở thành niềm cảm hứng chính cho cả tùy bút về con sông Đà
     Khác với con sông Hương thơ mộng, cuốn mình như một dải lụa đào quanh thành phố Huế, sông Đà như một người phụ nữ của thời đại, hiền hòa, bình dị nhưng đầy khí thế, hết mình khi bước vào trận chiến sinh tử. Đặc điểm của vùng đất của vẻ đẹp thiên nhiên luôn gắn liền với đặc điểm của con người sinh ra , lớn lên ở mảnh đất ấy. Con người Tây Bắc đẹp, với vẻ đẹp được luyện trong biển lửa, vẻ đẹp của những hạt bụi vàng lấp lánh bước ra từ trang sách cho đến cuộc đời. Bằng những thủ pháp thích hợp như so sánh, nhân hóa, ẩn dụ, cùng những phép liên tưởng thú vị bởi kiến thức thực tế, Nguyễn Tuân đã để người đọc nhìn thấy một bức họa đầy đủ và trọn vẹn vẻ đẹp hài hòa giữa mảnh đất và con người ở miền Tây Bắc, cho dù có lắm phen giao tranh để sinh sống, nhưng sự khắc nghiệt, cùng quyết tâm và ý chí, vẻ đẹp bình dị, tài hoa đã trở thành nền tảng dựng xây nên bức tượng đài về những người lái đò thầm lặng   

 

Mục lục Lớp 12 theo chương Chương 1: Ứng dụng đạo hàm để khảo sát và vẽ đồ thị của hàm số - Bài tập Giải tích 12 Chương 1: Este - Lipit - Giải bài tập SGK Hóa học 12 nâng cao Chương 1: Ứng dụng đạo hàm để khảo sát và vẽ đồ thị của hàm số - Giải tích 12 Chương 1: Việt Nam từ năm 1919 đến năm 1930 - Phần 2: Lịch sử Việt Nam từ 1919 - 1920 Chương 1: Cơ chế di truyền và biến dị - Phần 5: Di truyền học Địa Lý Việt Nam - Giải bài tập SGK Địa lý 12 Chương 1: Este - Lipit - Giải bài tập SGK Hóa học 12 Chương 1: Dao động cơ - Giải bài tập SGK Vật lý 12 Chương 1: Ứng dụng của đạo hàm để khảo sát và vẽ đồ thị hàm số - Giải tích 12 (Nâng cao) Chương 1: Khối đa diện - Hình học 12 Chương 1: Sự hình thành trật tự thế giới mới sau chiến tranh thế giới thứ hai (1945-1949) - Phần 1: Lịch sử thế giới hiện đại từ năm 1945 - 2000 Chương 1: Bằng chứng và cơ chế tiến hoá - Phần 6: Tiến hoá Chương 1: Động lực học vật rắn - Giải bài tập SGK Vật lý 12 nâng cao Chương 1: Cá thể và quần thể sinh vật - Phần 7: Sinh thái học Chương 2: Hàm số lũy thừa. Hàm số mũ và hàm số logarit - Bài tập Giải tích 12 Chương 2: Cacbohiđrat - Giải bài tập SGK Hóa học 12 nâng cao Chương 2: Hàm số lũy thừa. Hàm số mũ và hàm số lôgarit - Giải tích 12 Chương 2: Việt Nam từ năm 1930 đến năm 1945 - Phần 2: Lịch sử Việt Nam từ 1919 - 1920 Địa Lý Tự Nhiên - Giải bài tập SGK Địa lý 12 Chương 2: Cacbohiđrat - Giải bài tập SGK Hóa học 12 Chương 2: Sóng cơ và sóng âm - Giải bài tập SGK Vật lý 12 Chương 2: Tính quy luật của hiện tượng di truyền - Phần 5: Di truyền học Chương 2: Hàm số lũy thừa, hàm số mũ và hàm số lôgarit - Giải tích 12 (Nâng cao) Chương 2: Liên Xô và các nước Đông Âu (1945-1991), Liên Bang Nga (1991-2000) - Phần 1: Lịch sử thế giới hiện đại từ năm 1945 - 2000 Chương 2: Mặt nón, mặt trụ, mặt cầu - Hình học 12 Chương 2: Sự phát sinh và phát triển của sự sống trên Trái Đất - Phần 6: Tiến hoá Chương 2: Quần xã sinh vật - Phần 7: Sinh thái học Chương 2: Dao động cơ - Giải bài tập SGK Vật lý 12 nâng cao Chương 3: Nguyên hàm - Tích phân và ứng dụng - Bài tập Giải tích 12 Chương 3: Amin, Amino axit và protein - Giải bài tập SGK Hóa học 12 nâng cao Chương 3: Nguyên hàm - Tích phân và ứng dụng - Giải tích 12 Chương 3: Việt Nam từ năm 1945 đến năm 1954 - Phần 2: Lịch sử Việt Nam từ 1919 - 1920 Địa Lý Dân Cư - Giải bài tập SGK Địa lý 12 Chương 3: Amin, Amino axit và protein - Giải bài tập SGK Hóa học 12 Chương 3: Dòng điện xoay chiều - Giải bài tập SGK Vật lý 12 Chương 3: Di truyền học quần thể - Phần 5: Di truyền học Chương 3: Nguyên hàm - Tích phân và ứng dụng - Giải tích 12 (Nâng cao) Chương 3: Các nước Á, Phi và Mĩ Latinh (1945-2000) - Phần 1: Lịch sử thế giới hiện đại từ năm 1945 - 2000 Chương 3: Phương pháp tọa độ trong không gian - Hình học 12 Chương 3: Hệ sinh thái, sinh quyển và bảo vệ môi trường - Phần 7: Sinh thái học Chương 3: Sóng cơ - Giải bài tập SGK Vật lý 12 nâng cao Chương 4: Số phức - Bài tập Giải tích 12 Chương 4: Polime và vật liệu polime - Giải bài tập SGK Hóa học 12 nâng cao Chương 4: Số phức - Giải tích 12 Chương 4: Việt Nam từ năm 1954 đến năm 1975 - Phần 2: Lịch sử Việt Nam từ 1919 - 1920 Địa Lý Kinh Tế - Giải bài tập SGK Địa lý 12 Chương 4: Polime và vật liệu polime - Giải bài tập SGK Hóa học 12 Chương 4: Dao động và sóng điện từ - Giải bài tập SGK Vật lý 12 Chương 4: Ứng dụng di truyền học - Phần 5: Di truyền học Chương 4: Số phức - Giải tích 12 (Nâng cao) Chương 4: Mĩ, Tây Âu, Nhật Bản (1945 - 2000) - Phần 1: Lịch sử thế giới hiện đại từ năm 1945 - 2000 Chương 4: Dao động và sóng điện từ - Giải bài tập SGK Vật lý 12 nâng cao Chương 5: Quan hệ quốc tế (1945 - 2000) - Phần 1: Lịch sử thế giới hiện đại từ năm 1945 - 2000 Chương 5: Dòng điện xoay chiều - Giải bài tập SGK Vật lý 12 nâng cao Chương 5: Đại cương về kim loại - Giải bài tập SGK Hóa học 12 nâng cao Chương 5: Việt Nam từ năm 1975 đến năm 2000 - Phần 2: Lịch sử Việt Nam từ 1919 - 1920 Địa Lý Địa Phương - Giải bài tập SGK Địa lý 12 Chương 5: Đại cương về kim loại - Giải bài tập SGK Hóa học 12 Chương 5: Sóng ánh sáng - Giải bài tập SGK Vật lý 12 Chương 5: Di truyền học người - Phần 5: Di truyền học Chương 6: Cách mạng khoa học - công nghệ và xu thế toàn cầu hóa - Phần 1: Lịch sử thế giới hiện đại từ năm 1945 - 2000 Chương 6: Sóng ánh sáng - Giải bài tập SGK Vật lý 12 nâng cao Chương 6: Kim loại kiềm, kim loại kiềm thổ, nhôm - Giải bài tập SGK Hóa học 12 nâng cao Chương 6: Kim loại kiềm, kim loại kiềm thổ, nhôm - Giải bài tập SGK Hóa học 12 Chương 6: Lượng tử ánh sáng - Giải bài tập SGK Vật lý 12 Chương 7: Lượng tử ánh sáng - Giải bài tập SGK Vật lý 12 nâng cao Chương 7: Crom - Sắt - Đồng - Giải bài tập SGK Hóa học 12 nâng cao Chương 7: Sắt và một số kim loại quan trọng - Giải bài tập SGK Hóa học 12 Chương 7: Hạt nhân nguyên tử - Giải bài tập SGK Vật lý 12 Chương 8: Sơ lược về Thuyết tương đối hẹp - Giải bài tập SGK Vật lý 12 nâng cao Chương 8: Phân biệt một số chất vô cơ. Chuẩn độ dung dịch - Giải bài tập SGK Hóa học 12 nâng cao Chương 8: Phân biệt một số chất vô cơ - Giải bài tập SGK Hóa học 12 Chương 8: Từ vi mô đến vĩ mô - Giải bài tập SGK Vật lý 12 Chương 9: Hạt nhân nguyên tử - Giải bài tập SGK Vật lý 12 nâng cao Chương 9: Hóa học và vấn đề phát triển kinh tế, xã hội, môi trường - Giải bài tập SGK Hóa học 12 nâng cao Chương 9: Hóa học và vấn đề phát triển kinh tế, xã hội, môi trường - Giải bài tập SGK Hóa học 12 Chương 10: Từ vi mô đến vĩ mô - Giải bài tập SGK Vật lý 12 nâng cao
Lớp 12
Chương 1: Ứng dụng đạo hàm để khảo sát và vẽ đồ thị của hàm số Chương 1: Este - Lipit Chương 1: Ứng dụng đạo hàm để khảo sát và vẽ đồ thị của hàm số Chương 1: Việt Nam từ năm 1919 đến năm 1930 Chương 1: Cơ chế di truyền và biến dị Địa Lý Việt Nam Chương 1: Este - Lipit Chương 1: Dao động cơ Chương 1: Ứng dụng của đạo hàm để khảo sát và vẽ đồ thị hàm số Chương 1: Khối đa diện Chương 1: Sự hình thành trật tự thế giới mới sau chiến tranh thế giới thứ hai (1945-1949) Chương 1: Bằng chứng và cơ chế tiến hoá Chương 1: Động lực học vật rắn Chương 1: Cá thể và quần thể sinh vật Chương 2: Hàm số lũy thừa. Hàm số mũ và hàm số logarit Chương 2: Cacbohiđrat Chương 2: Hàm số lũy thừa. Hàm số mũ và hàm số lôgarit Chương 2: Việt Nam từ năm 1930 đến năm 1945 Địa Lý Tự Nhiên Chương 2: Cacbohiđrat Chương 2: Sóng cơ và sóng âm Chương 2: Tính quy luật của hiện tượng di truyền Chương 2: Hàm số lũy thừa, hàm số mũ và hàm số lôgarit Chương 2: Liên Xô và các nước Đông Âu (1945-1991), Liên Bang Nga (1991-2000) Chương 2: Mặt nón, mặt trụ, mặt cầu Chương 2: Sự phát sinh và phát triển của sự sống trên Trái Đất Chương 2: Quần xã sinh vật Chương 2: Dao động cơ Chương 3: Nguyên hàm - Tích phân và ứng dụng Chương 3: Amin, Amino axit và protein Chương 3: Nguyên hàm - Tích phân và ứng dụng Chương 3: Việt Nam từ năm 1945 đến năm 1954 Địa Lý Dân Cư Chương 3: Amin, Amino axit và protein Chương 3: Dòng điện xoay chiều Chương 3: Di truyền học quần thể Chương 3: Nguyên hàm - Tích phân và ứng dụng Chương 3: Các nước Á, Phi và Mĩ Latinh (1945-2000) Chương 3: Phương pháp tọa độ trong không gian Chương 3: Hệ sinh thái, sinh quyển và bảo vệ môi trường Chương 3: Sóng cơ Chương 4: Số phức Chương 4: Polime và vật liệu polime Chương 4: Số phức Chương 4: Việt Nam từ năm 1954 đến năm 1975 Địa Lý Kinh Tế Chương 4: Polime và vật liệu polime Chương 4: Dao động và sóng điện từ Chương 4: Ứng dụng di truyền học Chương 4: Số phức Chương 4: Mĩ, Tây Âu, Nhật Bản (1945 - 2000) Chương 4: Dao động và sóng điện từ Chương 5: Quan hệ quốc tế (1945 - 2000) Chương 5: Dòng điện xoay chiều Chương 5: Đại cương về kim loại Chương 5: Việt Nam từ năm 1975 đến năm 2000 Địa Lý Địa Phương Chương 5: Đại cương về kim loại Chương 5: Sóng ánh sáng Chương 5: Di truyền học người Chương 6: Cách mạng khoa học - công nghệ và xu thế toàn cầu hóa Chương 6: Sóng ánh sáng Chương 6: Kim loại kiềm, kim loại kiềm thổ, nhôm Chương 6: Kim loại kiềm, kim loại kiềm thổ, nhôm Chương 6: Lượng tử ánh sáng Chương 7: Lượng tử ánh sáng Chương 7: Crom - Sắt - Đồng Chương 7: Sắt và một số kim loại quan trọng Chương 7: Hạt nhân nguyên tử Chương 8: Sơ lược về Thuyết tương đối hẹp Chương 8: Phân biệt một số chất vô cơ. Chuẩn độ dung dịch Chương 8: Phân biệt một số chất vô cơ Chương 8: Từ vi mô đến vĩ mô Chương 9: Hạt nhân nguyên tử Chương 9: Hóa học và vấn đề phát triển kinh tế, xã hội, môi trường Chương 9: Hóa học và vấn đề phát triển kinh tế, xã hội, môi trường Chương 10: Từ vi mô đến vĩ mô
+ Mở rộng xem đầy đủ